Trên địa bàn thành phố hiện có gần 1.000 doanh nghiệp công nghệ số hoạt động; gần 9.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số (đạt hơn 40%).
Nhiều doanh nghiệp lớn như: Tập đoàn điện tử LG, Fuji Xerox, Haengsung Electronics, VinGroup... hoạt động trong lĩnh vực ICT, kinh tế số hiệu quả đã có nhiều đóng góp vào phát triển kinh tế. 6 tháng đầu năm 2024, Hải Phòng đã thu hút thêm khoảng 1,5 tỷ USD đầu tư.
Triển khai Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, và đặc biệt là Quyết định 58/QĐ-UBQGCĐS ngày 19/4/2024 của Uỷ ban Quốc gia về chuyển đổi số, Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số TP Hải Phòng đến năm 2025, định hướng 2030. Trong đó, đặt ra chỉ tiêu phát triển kinh tế số năm 2025 đạt tỷ trọng 25%/GRDP, năm 2030 đạt 35%/GRDP.
Thời gian qua, Hải Phòng đã đẩy mạnh phát triển hạ tầng số. Số trạm phát sóng 4G mới được xây dựng tăng 6% so với cuối năm 2023, cơ bản xoá toàn bộ các vùng lõm sóng. Vùng phủ 4G đạt khoảng 95%, nâng tốc độ tải khoảng 16% so với cuối năm 2023, cao hơn 62% so với yêu cầu tối thiểu của Bộ TT&TT. Mạng băng rộng cố định đạt vùng phủ 96% hộ gia đình (năm 2022 mới đạt 82%). Tốc độ tăng khoảng 150% so với cuối năm 2023. Đã có thêm 1 trung tâm dữ liệu điện toán đám mây của doanh nghiệp viễn thông được khai trương và đưa vào hoạt động.
Ngoài việc triển khai thử nghiệm 5G thương mại tại các khu đô thị trung tâm tương tự tại các địa phương khác, để thúc đẩy các ngành mũi nhọn là cảng biển và công nghiệp, thành phố đã phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông triển khai 5G tại các cảng Tân Vũ, Đình Vũ để thí điểm xây dựng cảng thông minh và triển khai thành công mạng 5G dùng riêng cho nhà máy thông minh đầu tiên trên toàn quốc tại Công ty Pegatron (khu công nghiệp DEEP C II).
Hệ thống cảng biển Hải Phòng là cảng biển lớn nhất khu vực miền Bắc, đứng thứ 2 toàn quốc, bao gồm 53 cảng, sản lượng hàng hoá qua cảng 6 tháng đầu năm đạt 75,7 triệu tấn, tăng 9% so với cùng kỳ, chiếm trên 25% lưu lượng toàn quốc. Do đó Hải Phòng đặc biệt quan tâm đến số hoá ngành kinh tế cảng biển. Trong thời gian qua, việc đưa các giải pháp công nghệ số make in Vietnam, nền tảng chuyển đổi số cảng biển vào ứng dụng đã góp phần chuyển đổi số nhanh.
Kết quả là 100% các cảng tại Hải Phòng đã có hệ thống quản lý cảng TOS, khoảng >40% số cảng (22 cảng) đã ứng dụng các nền tảng cảng biển số, với nhiều ưu việt như triển khai nhanh (2-4 tuần cho 1 cảng thay vì 16-18 tháng), chi phí chỉ 10-20% so với các sản phẩm cùng loại từ nước ngoài, nâng năng lực đón tàu của hệ thống cẩu tăng khoảng 50%, khả năng giải phóng hàng hóa tại bãi tăng 30%, các thủ tục hành chính, dịch vụ cảng giảm mạnh từ 6-8h với 12 điểm chạm xuống chỉ còn 3 phút với 2 điểm chạm.
Năm 2023, Hải Phòng đứng thứ 5/63 tỉnh thành về chỉ số phát triển thương mại điện tử. Đến nay, hầu hết các chi nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn đều thực hiện thu thuế bằng hình thức điện tử, liên thông với Kho bạc Nhà nước Hải Phòng, Cục thuế HP, Cục Hải quan Hải Phòng, Bảo hiểm xã hội TP... Thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng ước thực hiện 6 tháng đầu năm 27.212 tỷ đồng, tăng 10% so cùng kỳ năm 2023.
Số lượng doanh nghiệp triển khai hợp đồng điện tử đạt trên 80%, số lượng doanh nghiệp sử dụng hoá đơn điện tử, nộp thuế điện tử đạt trên 99%.
Để thúc đẩy kinh tế số phát triển mạnh hơn nữa, TP Hải Phòng xin kiến nghị Thủ tướng Chính phủ; tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Đề án 06, đẩy mạnh thương mại điện tử, thanh toán trực tuyến, không dùng tiền mặt. Cho phép Hải Phòng triển khai liên kết cụm cảng, cảng mở, xây dựng trung tâm logistics tầm cỡ khu vực. Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo giao một cơ quan chuyên môn phụ trách xây dựng trung tâm dữ liệu và nền tảng số quốc gia quản lý việc chia sẻ dữ liệu trong lĩnh vực logistics, nhằm liên kết các đơn vị trong chuỗi dịch vụ logistics, hạn chế cát cứ dữ liệu, hạn chế thất thoát dữ liệu xuyên biên giới do hiện nay dữ liệu lĩnh vực này đang nằm ở nhiều nơi như doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cơ quan hải quan, thuế, cảng vụ, biên phòng… và đặc biệt là ở các hãng tàu nước ngoài mà chưa có các quy định chế tài để liên kết chia sẻ dữ liệu.