Xây dựng Hồ Tây thành trung tâm văn hóa mới của Thủ đô là một quyết định đúng đắn
Chứng kiến giai đoạn Hà Nội chuyển đổi về quy hoạch đô thị qua nhiều thời kỳ, ông có thể mô tả rõ hơn những xu hướng thay đổi của đô thị Hà Nội trong suốt thời gian qua?
- Đối với tôi, các chuyển đổi của Hà Nội trên phương diện quy hoạch đô thị là mối quan tâm hàng đầu. Năm 2008, khi tham gia ý kiến tích cực vào cuộc tranh luận về mở rộng địa giới hành chính Hà Nội, tôi đã ủng hộ mạnh mẽ đề xuất này, với luận điểm chính là nâng cao sức cạnh tranh của Hà Nội như một đô thị thủ đô trong hệ thống đô thị toàn cầu.
Xu hướng quan trọng nhất trong quy hoạch đô thị Hà Nội, mà chỉ có thể xuất hiện sau khi mở rộng, theo tôi là sự thay đổi của thành phố Thủ đô từ một đô thị đơn cực thành một đô thị đa cực. Chính sự chuyển đổi thành một đô thị đa cực này cho phép Hà Nội cạnh tranh thuận lợi trong hai lĩnh vực căn bản mà Hà Nội có thế mạnh: Tri thức và Tiện nghi. Trong cả hai lĩnh vực này, các nguồn lực về văn hóa – xã hội của Hà Nội đóng vai trò hết sức quan trọng.
Cấu trúc đơn cực là lấy Hồ Gươm làm lõi, sau đó được chuyển sang cấu trúc đa cực với nhiều thành phần chức năng, nhiều khu vực thích hợp với các hoạt động khác nhau, ví dụ như khu vực thương mại, khu vực giao dịch quốc tế, khu vực văn hóa thể thao,...
Tôi nghĩ Hồ Tây chính là một khu vực được chọn rất đúng làm trung tâm văn hóa thể thao cho Hà Nội và ngay từ rất sớm, chúng ta đã thấy được tiềm năng rất lớn của khu vực này. Vấn đề là giải quyết như thế nào để nó có thể cống hiến, đóng góp tốt nhất cho sự phát triển của Hà Nội thành một thành phố có vị trí đáng kể trong mạng lưới đô thị quốc tế.
Hà Nội đang có quy hoạch tiếp nối từ năm 1994 về việc xây dựng Hồ Tây thành trung tâm văn hoá mới của Thủ đô với một hệ thống nhiều công trình như trục cảnh quan đi bộ, quảng trường, bảo tàng nghệ thuật, triển lãm, và nhà hát nổi trên Đầm Trị... Ông đánh giá thế nào về mức độ cần thiết của quy hoạch này? Và Hà Nội cần làm gì để quy hoạch sớm có thể triển khai?
- Tôi cho rằng việc xây dựng Hồ Tây thành trung tâm văn hóa mới của Thủ đô là một quyết định đúng đắn. Các hạng mục công trình như trục cảnh quan đi bộ, quảng trường, bảo tàng nghệ thuật, triển lãm, nhà hát nổi trên Đầm Trị là các thành tố vật thể cần thiết cho trung tâm văn hóa mới.
Tuy nhiên, yếu tố quyết định cho thành công của trung tâm văn hóa này lại chính là các yếu tố phi vật thể, hay là phần hồn của nó. Như tôi đã nói, Khu Trung tâm văn hóa Hồ Tây phải phản ánh các giá trị xã hội cốt lõi, phù hợp với cảnh quan đô thị và trở thành một cực vị thế nổi bật.
Để quy hoạch Trung tâm văn hóa mới của thủ đô tại khu vực Hồ Tây sớm được triển khai, cần tuân thủ quy trình phê duyệt, trong đó có việc lấy ý kiến cộng đồng. Trong nhiều trường hợp tương tự không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên thế giới, các ý kiến trong cộng đồng có thể rất khác nhau. Để tạo được sự đồng thuận, sẽ không bao giờ thừa khi cố gắng cung cấp thông tin, giải thích hoặc tổ chức hội thảo nghiêm túc.
Năm 2010, Công ty Vinaconex R&D do tôi làm giám đốc đã được UBND TP Hà Nội chọn làm Nhà tư vấn cho cuộc thi Kiến trúc Quốc tế về Nhà hát Opera Hà Nội. Chúng tôi gửi giấy mời và gọi điện thoại chính thức cho 4 công ty của các kiến trúc sư được coi là hàng đầu thế giới lúc bấy giờ: Norman Foster (Anh), Renzo Piano (Ý), Zaha Hadid (Anh) và Paul Andreu (Pháp).
Cuối cùng Zaha và Paul không tham gia được vì bận, và phương án của Renzo Piano đã được lựa chọn bởi một Hội đồng Giám khảo quốc tế uy tín dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng, nữ GS Christine Hawley, lúc bấy giờ là người đứng đầu Khoa Kiến trúc tại Đại học Tổng hợp London (The Bartlett School of Architecture, University College London).
Cuộc thi kiến trúc đã diễn ra với trình độ chuyên môn và mức độ kinh nghiệm cao nhất có thể trên thế giới, và chúng tôi cùng với Hội đồng giám khảo tin chắc rằng nếu được quyết định đầu tư, đây sẽ là một công trình nổi bật của Việt nam, sẽ gây tiếng vang lớn cho Trung tâm Văn hóa – Giao dịch quốc tế Hồ Tây và đưa Việt Nam hội nhập với sinh hoạt văn hóa của cộng đồng quốc tế rộng rãi.
Cũng như nhiều nước trên thế giới đã thành công với nền công nghiệp văn hóa, xây dựng nhiều các công trình biểu tượng, trong quy hoạch, Hà Nội mong muốn xây dựng một nhà hát tầm cỡ trong khu vực và kỳ vọng đây sẽ là một biểu tượng văn hoá không chỉ của Thủ đô mà của cả nước. Theo ông chúng ta cần có một công trình như vậy để tạo một dấu ấn, một thương hiệu và thậm chí là tạo ra tương lai cho mảnh đất nghìn năm văn hiến trong quá trình hội nhập?
- Các cường quốc kinh tế trên thế giới đều là các cường quốc văn hóa, và sức mạnh mềm dựa trên vốn văn hóa của họ đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì tính cạnh tranh cao của các nền kinh tế này. Tuy nhiên, đối với một số nước phát triển muộn hơn, nền công nghiệp văn hóa đã trở thành lực lượng chủ đạo trong chiến lược phát triển đất nước.
Một ví dụ rất rõ ràng và sinh động là Hàn Quốc. Chính phủ nước này đã chuyển từ trọng tâm kiểm soát chính trị đối với các ngành công nghiệp văn hóa trước đây đến việc coi chúng là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu văn hoá của nước này.
Kết quả là các sản phẩm văn hóa của họ (từ văn hóa Kim Chi truyền thống đến K-pop hiện đại) nhận được hỗ trợ hiệu quả bởi đầu tư của chính phủ vào các ngành liên quan như công nghệ thông tin và truyền thông.
Từ những năm 1990, Hàn Quốc đã tham gia mạnh mẽ vào thị trường Đông Á, và từ đầu những năm 2000, đã trở thành một hiện tượng thực sự đặc biệt trên thị trường toàn cầu, giúp Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất về mọi mặt trên thế giới. Ngay trong khu vực Đông Nam Á của chúng ta, Singapore và Thái Lan cũng dựa rất mạnh vào vốn văn hóa của mình để phát triển và cạnh tranh thành công trên phạm vi toàn cầu.
Nếu chúng ta có niềm tin rất lớn vào các giá trị phi vật thể của Việt Nam như một tiền đề bảo đảm cho nền công nghiệp văn hóa có thể phát triển mạnh mẽ, thì song song với chúng, các giá trị vật thể cũng phải được tạo ra ở một mức tương xứng.
Một nền công nghiệp văn hóa muốn hoạt động và phát triển đến đỉnh cao cần phải tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho cả 7 ngành nghệ thuật truyền thống, bao gồm Kiến trúc, Điêu khắc, Hội họa, Văn học, nhạc, Biểu diễn và Điện ảnh. Đặc biệt đối với 3 ngành cuối, m nhạc, Biểu diễn và Điện ảnh, các không gian chuyên dụng chất lượng cao là yêu cầu tối thượng.
Một nhà hát tầm cỡ khu vực chắc chắn là ưu tiên hàng đầu cho Trung tâm văn hóa – Giao dịch quốc tế Hồ Tây, nếu muốn đẩy nhanh quá trình hội nhập và đưa Việt Nam vào tâm điểm của khu vực Đông Nam Á trên lĩnh vực văn hóa. Có thể nêu ra một vài lý do hiển nhiên sau đây:
Thứ nhất: Đối với các ngành nhạc Biểu diễn và Điện ảnh, thành công của chúng phụ thuộc gần như hoàn toàn vào công nghệ nghe nhìn hiện đại đã có những bước phát triển vượt bậc, và yêu cầu các không gian và thiết bị chuyên dụng được thiết kế kỹ lưỡng.
Thứ hai: Các cơ sở biểu diễn hiện nay ở Hà Nội, tuy đã phục vụ tuyệt vời cho cộng đồng dân cư đô thị từ ngày xây dựng, nhưng chỉ có công suất hạn chế, không còn thích hợp với quy mô rất lớn của các hoạt động văn hóa tầm cỡ khu vực hoặc toàn cầu - chính là đích nhằm tới của nền công nghiệp văn hóa mới của Việt Nam.
Thứ ba: Một nhà hát tầm cỡ với các không gian và hệ thống phụ trợ sẽ là tâm điểm, hoặc là cực vị thế quan trọng nhất, tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với cộng đồng dân cư Thủ đô và bè bạn năm châu.
Thứ tư: Cơ sở vật chất - kỹ thuật tầm cỡ quốc tế của nhà hát này sẽ là nơi đào tạo các tài năng với những hứa hẹn phát triển rực rỡ của giới trẻ làm nghệ thuật, những người góp phần xây dựng sức mạnh mềm của đất nước, mà ai cũng biết là sẽ đóng một vai trò đáng kể trong các chiến lược phát triển kinh tế của một đất nước Việt Nam hùng mạnh và văn minh.
Không nhất thiết phải giữ nguyên trạng mà quan trọng là hồn cốt Hồ Tây
Thưa ông, để có thể thực hiện hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, Hà Nội cần lưu tâm tới những điều gì?
- Trước hết cần phải nói rằng, đứng trước một khu vực hay công trình có các yếu tố di sản cần bảo vệ và phát huy, ta có ba cấp độ xử lý, tùy theo mức độ quan trọng và tình huống đô thị: Bảo tồn lịch sử, Tôn tạo di sản và Tái phát triển.
Trên thế giới, cấp độ thứ nhất chỉ áp dụng cho các công trình di sản đặc biệt khi cần giữ nguyên hiện trạng lịch sử, đến từng chi tiết như màu sơn và vật liệu khởi thủy, chẳng hạn đối với các lâu đài và nơi thờ tự ở Rome, Paris, Bắc Kinh, hoặc khu Đại nội trong thành Huế.
Các khu vực cảnh quan rộng lớn như Hồ Tây cần áp dụng cấp độ thứ hai, tức là tôn tạo di sản. Các nghiên cứu gần đây trên thế giới, đặc biệt của các thành viên tích cực thuộc ICOMOS (Hội đồng Di tích và Di chỉ Quốc tế) đã chỉ ra rằng cấp độ hai hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc phát triển bền vững. Đó chính là cái chúng ta cần cho Hà Nội.
Tôn tạo di sản cho phép chúng ta tận dụng mọi nguồn lực để nhanh chóng phát triển Trung tâm Văn hóa – Giao dịch quốc tế Hồ Tây mà không phải máy móc giữ ở trạng thái bất biến tất cả các thành tố vật thể ở đây. Các thay đổi có tuân theo nguyên tắc phát triển bền vững và bảo đảm giữ nguyên bản sắc của khu vực là một hoạt động bình thường ngay ở những đô thị có quy định chặt chẽ nhất về quy hoạch tôn tạo di sản.
Hồ Tây là một viên ngọc quý của thành phố hay còn được nhiều người gọi là “vùng đất thiêng”, nhưng thực tế nhiều năm qua nơi đây đã và đang bị xâm lấn bởi các khu dân cư tự phát, hàng quán lộn xộn… Thưa ông, để vừa lưu giữ được Hồ Tây với danh hiệu vốn có, vừa trở thành trung tâm văn hoá, giao lưu quốc tế như trong quy hoạch thì TP Hà Nội cần lưu ý điều gì?
- Như đã nói ở trên, khu vực Hồ Tây là một cảnh quan lịch sử, nên được ứng xử theo cách tiếp cận tôn tạo di sản thay vì bảo tồn lịch sử. Trong cách tiếp cận này, không nhất thiết phải giữ nguyên trạng hoặc phục hồi nguyên trạng các yếu tố vật thể, mà phải giữ cho được các đặc tính phi vật thể, tức là hồn cốt của nơi chốn, các giá trị căn bản của cái thường được gọi là trí nhớ văn hóa. Để thực hiện được cần lập một thiết chế thích hợp là khu vực tôn tạo/bảo tồn, nơi lưu giữ các đặc điểm kiến trúc/tự nhiên được coi là có giá trị và cần được bảo vệ.
Về mặt thiết kế công trình, hiện nay tại khu vực Hồ Tây chưa có công trình tầm cỡ nào về hoạt động văn hóa nghệ thuật được xây dựng. Đây là một cơ hội lớn để đầu tư cho những công trình biểu tượng bề thế và nó phải phản ánh trình độ, mức độ phát triển hiện tại của xã hội chúng ta.
Về hạ tầng kỹ thuật, hệ thống giao thông phải được quan tâm hàng đầu, đặc biệt đối với các khu vực tập trung các hoạt động văn hóa – biểu diễn công cộng. Việc xử lý nước thải và chất thải rắn cần phải bảo đảm ngăn chặn ở mức cao nhất các khả năng xảy ra ô nhiễm đối với một diện tích mặt nước tự nhiên.
Có thể nói, đây là nơi tập trung cao nhất các hoạt động văn hóa – văn nghệ, nên cách tiếp cận quy hoạch và kiến trúc phù hợp với một số lượng người rất lớn cần được cân nhắc kỹ, đặc biệt quan tâm đến công tác an toàn và chất lượng môi trường.
Hiện chúng ta đang có và gìn giữ nhiều di sản được để lại theo suốt chiều dài lịch sử. Nhưng, trong nhiều thập niên qua, chúng ta đã có thêm những sáng tạo vật thể và phi vật thể nào có thể trở thành di sản cho thế hệ tương lai chưa?
- Phải thành thực mà nói rằng, ở một đất nước đã chứng kiến rất nhiều biến động dữ dội của lịch sử và sự tàn phá khốc liệt của nhiều cuộc chiến tranh, thì lĩnh vực sáng tạo các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể có thể trở thành di sản để lại cho các thế hệ mai sau, chúng ta chưa làm được gì nhiều.
Những công trình lịch sử lớn trong khuôn khổ Hoàng thành Thăng Long, Thành Huế đã không còn được nguyên vẹn. Sau 1954 và sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, các công trình văn hóa đã xuất hiện nhiều hơn, như: Nhà hát Chèo, Bảo tàng Dân tộc học, Nhà hát Tuổi Trẻ, Trung tâm Chiếu phim Quốc gia… và các công trình do nước bạn giúp: Cung Văn hóa Công nhân, Bảo tàng Hồ Chí Minh. Những công trình này đã thu hút một lượng người hưởng thụ văn hóa đông đảo.
Tuy nhiên, các công trình nổi bật, cả về trình độ công nghệ và giá trị kiến trúc so với khu vực và trên thế giới có lẽ vẫn còn ở phía trước. Chúng ta chắc chắn sẽ tiến tới việc phát triển những công trình này thông qua nhiều cuộc thi kiến trúc quốc tế như hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển nhất, vẫn thường làm khi đầu tư cho các công trình mấu chốt.
Thưa ông, để một công trình thành công có thể để lại cho thế hệ tương lai, cần phải lưu ý điều gì?
- Muốn một công trình thành công có thể để lại cho tương lai, trước hết công trình đó phải mang dấu ấn rõ nét của thời điểm mà nó ra đời, trên tất cả các phương diện, bao gồm: Kiến thức và trình độ kỹ thuật đương đại (ở mức độ toàn cầu); các giá trị xã hội cốt lõi của đất nước; sự phù hợp với cảnh quan đô thị luôn luôn thay đổỉ trong một triết lý chủ đạo về phát triển bền vững; và khả năng tạo nên vị thế xã hội đáng kể của địa điểm xây dựng công trình.
Xin cảm ơn ông đã chia sẻ!