Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa phát biểu tại Hội nghị |
Quang cảnh tại điểm cầu Thành ủy Hà Nội. |
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Nguyễn Văn Hùng đã nêu: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã hoạch định đường lối đất nước đến năm 2030 – tầm nhìn đến 2045 với mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2045 đất nước ta trở thành đất nước công nghiệp phát triển. Đại hội cũng đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước 10 năm. Từ đó để tập trung thực hiện các nhiệm vụ, cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng. Nhất là sáng nay, chúng ta hệ thống lại các quan điểm của Đảng, tư tưởng của Bác Hồ về văn hoá, nhất là điểm mới mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc XIII đề ra về lĩnh vực văn hoá đòi hỏi các cấp, các ngành, cơ quan quản lý về văn hoá cần cụ thể hoá các quan điểm này, xây dựng các chương trình và tham mưu, ban hành các chính sách. Với trách nhiệm của mình, Bộ VHTT&DL được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ là sớm cụ thể hoá chiến lược về kinh tế, xã hội, phát triển đất nước gắn với chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2030 và chiến lược văn hoá đối ngoại.
Bộ VHTT&DL đã phối hợp với các bộ, ngành T.Ư và địa phương tiến hành xây dựng chiến lược và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đã thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Ban hành Quyết định số 1909 ngày 12/11 về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hoá đến năm 2030.
Chiến lược tập trung thể hiện 5 quan điểm lớn. Thực chất, 5 quan điểm này là tiếp tục cụ thể hoá quan điểm ghi trong Nghị quyết XIII rõ hơn, sâu hơn, và phù hợp hơn với tình hình thực tiễn hiện nay trên cơ sở các quan điểm chung.
Bộ trưởng Bộ VHTT&DL Nguyễn Văn Hùng phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc |
Quan điểm thứ nhất là định hình văn hoá, xác định vị trí của văn hoá. Trong đó khẳng định, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế, xã hội. Văn hoá phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hoà với kinh tế, chính trị. Đảm bảo yếu tố văn hoá và con người trong phát triển kinh tế để thích ứng với xu thế phát triển của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 và trước sự tác động của thiên tai, dịch bệnh.
Quan điểm thứ 2 là xây dựng, phát triển văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, thống nhất trong đa dạng cộng đồng văn hoá dân tộc; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hoá giữ vai trò nòng cốt.
Quan điểm thứ 3 là phát triển văn hoá vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hoá, trọng tâm là chăm lo xây dựng cho con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Quan điểm thứ 4 là phát huy mọi nguồn lực để phát triển văn hoá thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc; nhân tố thúc đẩy phát triển con người Việt Nam trở thành trung tâm, chủ thể, nguồn nhân lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển.
Quan điểm thứ 5 là chủ động hợp tác và quảng bá các giá trị văn hoá của Việt Nam ra thế giới, phát huy sức mạnh mềm của văn hoá, góp phần quan trọng vào sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc tổ quốc, bảo đảm sự phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
Từ quan điểm đó, Chiến lược đặt ra 4 mục tiêu chung và 8 mục tiêu cụ thể. Trong đó 4 mục tiêu chung. Mục tiêu đầu tiên là xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; phát triển con người Việt Nam toàn diện. Mục tiêu thứ 2 là xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mục tiêu thứ 3 là hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hoá gắn liền với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hoá có tiềm năng. Mục tiêu thứ 4 là có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, huy động nguồn lực để phát triển văn hoá, con người.
Về nhiệm vụ giải pháp, trong Chiến lược đặt ra 11 nhiệm vụ giải pháp chính gồm: Nâng cao nhận thức, đẩy mạnh tuyên truyền, phát triển văn hoá; Hoàn thiện thể chế, chính sách, khuôn khổ phát lý; Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế; Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hoá; Bảo vệ và phát huy di sản văn hoá dân tộc; Hoàn thiện cơ thế thị trường trong lĩnh vực văn hoá, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hoá; Chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác, giao lưu quốc tế về văn hoá; Tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật; Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hoá; Phát huy hiệu quả các nguồn nhân lực đầu tư phát triển trong lĩnh vực văn hoá.
Tìm hiểu động lực và sức mạnh nội sinh của văn hóa
GS.TS Lê Hồng Lý - Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho rằng: Để khơi dậy những động lực và sức mạnh văn hoá, trước hết phải tạo ra được một xã hội có môi trường văn hoá nhân bản, lành mạnh và tiến bộ, mọi thứ trong môi trường đó phải rõ ràng, minh bạch. Trong xã hội đó sự trung thực, lòng trắc ẩn, hướng thiện phải được đề cao. Bảo vệ và phát huy nền văn hoá truyền thống của dân tộc vốn được xây đắp hàng ngàn đời nay bằng máu xương và mồ hôi, nước mắt của biết bao thế hệ cha ông. Nền văn hoá đó phải bắt đầu từ cái nôi đầu tiên là gia đình với những truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam rồi tới cộng đồng và xã hội. Đó là những động lực văn hoá nâng con người ta lên trước những thử thách, khó khăn.
Các đại biểu tham dự Hội nghị tại điểm cầu T.Ư chiều ngày 24/11 |
Theo đại diện Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam: Cần phải hiểu động lực và sức mạnh nội sinh của văn hoá không phải tự dưng hay ngày một ngày hai mà có được, mà cái động lực và sức mạnh ấy phải được nuôi dưỡng, giáo dục, vun đắp, chăm bón từng ngày, từng giờ, từ những công việc hết sức nhỏ bé, bình thường diễn ra hàng ngày đến sự trải nghiệm, từng trải được hun đúc, trao truyền ngấm dần từ thế hệ này qua thế hệ khác trở thành căn tính, truyền thống trở thành gien di truyền văn hoá trong mỗi con người.
Văn hoá là con người, mọi thứ cũng tạo nên và xuất phát từ con người, do vậy con người cần được coi trọng, được đặt lên hàng đầu, cần đưa tất cả về giá trị thực của nó, với đúng những gì nó có ở trong mỗi cá nhân đó. Tạo cho con người sự bình đẳng trước mọi cơ hội để họ phát triển và từ thực lực khả năng của họ đặt họ đúng vị trí trong cuộc sống, họ được nhìn nhận một cách khách quan, công bằng, có như vậy sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ cho họ. Và như thế sẽ không còn chuyện chạy theo bằng cấp, danh hiệu, chức danh hay những thành tích ảo, tạo nên những hàng giả, hàng nhái, thiếu chất lượng trong xã hội. Bên cạnh đó, vấn đề pháp luật, kỉ cương phải được đề cao, đặt lên hàng đầu, được tôn trọng và phải thật nghiêm minh. Một vấn đề hết sức quan trọng khác trong bối cảnh hiện nay đó là văn hoá làm gương của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các vị trí cao cấp.
Nếu nhìn văn hoá một cách đầy đủ ở mọi khía cạnh của cuộc sống, chúng ta sẽ thấy văn hoá có mặt ở tất cả những gì liên quan đến con người và trong tất cả mọi lĩnh vực. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, trong lĩnh vực kinh tế, xã hội động lực văn hoá và sức mạnh nội sinh của nó có thể đem lại một sức mạnh vô biên và nguồn lực kinh tế to lớn.
Khi hiểu động lực và sức mạnh nội sinh dưới góc độ văn hoá ở trong mọi khía cạnh của cuộc sống chúng ta sẽ thấy bất kể lĩnh vực nào từ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá đề có thể chỉ ra và khơi dậy động lực và sức mạnh nội sinh của văn hoá, mà không chỉ thuần tuý ở trong một ngành nghề nào. Từ đó mới thấy được động lực và sức mạnh nội sinh thực sự của văn hoá đối với sự phát triển đất nước Việt Nam tươi đẹp của chúng ta.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương, để phát huy hiệu quả sức mạnh mềm văn hóa thông qua chuyển hóa các tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm, dịch vụ CNVH, từ góc độ thể chế, Việt Nam cần xác định 5 giải pháp phát triển CNVH.
Trong đó, giải pháp đầu tiên là “Kiện toàn khung khổ thể chế, chính sách”. Cụ thể, việc hoàn thiện khung thể chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những rào cản, vướng mắc, khó khăn, hình thành khung khổ pháp lý, thể chế nhằm phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực cho CNVH phát triển theo hướng đáp ứng yêu cầu thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế. Đồng thời, tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về: Điện ảnh, di sản văn hóa, sở hữu trí tuệ, quảng cáo... Hoàn thiện, bổ sung các quy định pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan đáp ứng yêu cầu bảo hộ và thực thi quyền trong nước và hội nhập quốc tế; thúc đẩy phát triển văn hóa và phát triển các ngành CNVH.
Phó Thủ phát biểu phiên bế mạc tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc vào chiều ngày ngày 24/11 |
Phát biểu tại phiên bế mạc Hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh, nhiều năm nay những người làm công tác quản lý văn hoá, giới văn nghệ sĩ, đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân trông đợi có một hội nghị toàn quốc nhìn nhận lại vai trò của văn hoá, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng những thành quả đã đạt được, cũng như thiếu sót để thống nhất nhận thức, quan điểm, hành động nhằm chấn hưng và phát triển văn hoá dân tộc.
Với nhiều nội dung, nhiều công việc phải làm thường xuyên, liên tục, Phó Thủ tướng nêu một vài điểm để trong quá trình triển khai Chiến lược phát triển văn hoá thời gian tới.
Trước hết, chúng ta phải tiếp tục nâng cao nhận thức về văn hoá, khắc phục tình trạng “dù đã nói quán triệt đầy đủ các nghị quyết, chủ trương, chỉ thị văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về văn hoá nhưng quá trình thực hiện còn yếu kém hay hạn chế về nguồn lực”, thể hiện ở thời lượng, thời gian lãnh đạo dành cho công tác văn hoá, nguồn lực, con người làm văn hoá.
Theo Phó Thủ tướng, nhiều nơi, do sức ép về tăng trưởng trong khi công tác văn hoá, xã hội về ngắn hạn không làm ra tiền nên chưa được đặt ngang bằng với kinh tế. Trong giải quyết các vấn đề văn hoá, xã hội, ý kiến của các chuyên gia, nhà nghiên cứu, người hoạt động thực tiễn lâu năm chưa được tôn trọng đúng mức, dẫn đến việc ra những quyết định chưa đúng của người có trách nhiệm, cũng như sự mai một, hụt hẫng của đội ngũ, chuyên gia, nhà nghiên cứu về văn hoá.
Phó Thủ tướng cho biết các tổ chức quốc tế gần đây khi nói đến khái niệm phát triển bền vững không chỉ đề cập đến bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng xã hội, phát triển bao trùm mà còn bao hàm cả văn hoá, xã hội.“Khi đã nhận thức triệt để những vấn đề mang tính sống còn đối với đất nước, dân tộc thì chắc chắn chúng ta sẽ tìm mọi cách để thực hiện, dồn mọi nguồn lực cả về thời gian, tiền bạc, công sức để làm cho bằng được” - Phó Thủ tướng nói và cho rằng cần nhìn nhận đúng những thành quả đã đạt được trong lĩnh vực văn hoá, xã hội gắn với chính trị, kinh tế, luật pháp, con người... góp phần làm cho “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày hôm nay”.
Việc thực hiện Chiến lược phải góp phần khơi dậy khát vọng toàn dân tộc trong phát triển, chống được tụt hậu, tiếp tục tạo ra những xung lực mới, phát huy toàn bộ sáng tạo, sức mạnh toàn dân để đất nước phát triển nhanh hơn, bền vững hơn.
Trong kỷ nguyên mới của khoa học, công nghệ, hội nhập sâu rộng,… văn hoá Việt Nam tiếp thu những giá trị tốt đẹp của nhân loại, giữ gìn bản sắc nhưng cũng cần mạnh dạn thay đổi, điều chỉnh những biểu hiện không còn phù hợp.
Về xây dựng con người, Phó Thủ tướng nêu rõ mối quan hệ giữa con người và văn hóa, trong đó phải nhắc đến vai trò quan trọng của đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục trên tinh thần cầu thị và kiên trì. Cùng với đó là văn hóa làm gương, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên, người làm văn hóa từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài... phải phấn đấu thành những tấm gương về văn hóa.
Phó Thủ tướng mong muốn tất cả các cấp, ngành, bằng hành động cụ thể để chú trọng hơn và dành nhiều thời gian, nguồn lực hơn cho văn hóa; lắng nghe ý kiến của những người nghiên cứu và những người hoạt động thực tiễn, người có kinh nghiệm trước khi đưa ra các quyết định, bởi văn hóa có trong mọi lĩnh vực đời sống.
Các cấp, ngành, địa phương cùng với Bộ VHTT&DL cần có nhiều hoạt động, chương trình thiết thực, chắc chắn, từng bước một, lan tỏa tinh thần, đề cao giá trị, truyền thống của dân tộc Việt Nam, tự hào, tự tôn dân tộc, để xây dựng đất nước phát triển phồn vinh vì hạnh phúc của nhân dân; để nền văn hóa Việt Nam bừng sáng, hòa vào dòng chảy văn minh nhân loại.