Theo Kiểm toán Nhà nước, dự kiến năm 2018, nhu cầu vay bù đắp bội chi Ngân sách T.Ư là 195.000 tỷ đồng, vay mới để trả nợ gốc là 146.770 tỷ đồng và vay nước ngoài về cho vay lại khoảng 40.000 tỷ đồng. Dư nợ công cuối năm 2018 dự kiến ở mức khoảng 63,9% GDP, dư nợ Chính phủ ở mức khoảng 52,5% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 47,6% GDP, nằm trong giới hạn cho phép (dưới 50%). Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân, Bộ KH&ĐT cập nhật ngày 24/9/2018, nợ công của Việt Nam vào cuối năm 2018 ước đạt 61,4% GDP, giảm 2,3% so với năm 2017 và tương đương 3,13 triệu tỷ đồng (quy mô GDP cuối năm 2018 khoảng 5,1 triệu tỷ đồng).
|
Nâng chất lượng các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng cũng là biện pháp làm giảm áp lực nợ công. Ảnh: Hải Linh |
Cấu trúc nợ công của Việt Nam đang được cải thiện, với tỷ lệ/GDP giảm do GDP tăng hơn dự kiến, thời hạn nợ dài hơn và tỷ lệ nợ ngoại tệ giảm xuống, giúp Việt Nam hạn chế khả năng thương tổn trước các cú sốc tài chính. Đặc biệt, các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài cơ bản đã tự trả được nợ, không phải ứng trả nợ từ Quỹ Tích lũy. Lãi suất huy động cũng giảm mạnh qua các năm. Tuy nhiên, chi trả nợ cũng ngày càng tăng và trở thành gánh nặng lớn với ngân sách.
Quy mô nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài tiếp tục tăng lên và hệ số thanh toán trả nợ khá cao. Mặt khác, lãi suất vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài tăng lên (thậm chí có khoản vay lãi suất lên tới 4,5%/năm), làm tăng chi phí huy động vốn và nghĩa vụ trả nợ. Ngoài ra, tỷ lệ thu NSNN/GDP không thấp hơn các quốc gia khác, nhưng áp lực tăng chi tiêu công vẫn ở mức cao, gây quan ngại nghiêm trọng về bền vững tài khóa; khoảng 50% nợ trong nước Việt Nam sẽ đáo hạn trong 3 năm tới sẽ là áp lực rất lớn trong điều kiện các nhà đầu tư tham gia thị trường trái phiếu Chính phủ còn hạn chế.
Theo Bộ Tài chính, trong 6 tháng đầu năm 2018, tổng trả nợ của Chính phủ là 102.594 tỷ đồng (trả nợ trong nước là 81.011 tỷ đồng; trả nợ nước ngoài là 21.583 tỷ đồng), bằng 40,5% kế hoạch trả nợ trong năm 2018. |
Thực tế cho thấy, nợ công không cố định hoặc chỉ tăng hay giảm một chiều, mà thường biến động tăng, giảm theo kết quả tăng trưởng kinh tế và cân đối NSNN hàng năm. Đồng thời, mức tăng nợ công luôn cùng chiều với mức tăng rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng và mức mất khả năng chi trả nợ vay, cũng như từ cả mức thua lỗ của các DN Nhà nước, mức độ yếu kém trong quản lý đầu tư công, tình trạng tham nhũng và những ảnh hưởng tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu…
Chấm dứt tình trạng “cha chung không ai khóc”Để tăng cường kiểm soát nợ công, cần triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định; tăng cường kỷ luật tài chính; quyết liệt cơ cấu lại NSNN và nợ công; quản lý tốt thu NSNN, mở rộng cơ sở thuế và chống chuyển giá, trốn thuế, nợ đọng thuế; tăng cường chống tham nhũng trong đầu tư công và triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, nhất là chi phí hội họp, mua sắm trang thiết bị, phương tiện, đi công tác trong và ngoài nước…
Để bảo đảm các chỉ tiêu an toàn nợ công không vượt trần nợ công được Quốc hội quyết định, việc đưa ra “ngưỡng nợ” để cảnh báo trước và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo đảm nợ không tiến đến sát “trần nợ” là cần thiết, kiểu “phòng cháy hơn chữa cháy”. Đồng thời, cần chú ý thực hiệm nghiêm các biện pháp thích ứng bảo đảm khả năng trả nợ trong trung hạn và nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ công.
Hơn nữa, cần công khai thông tin về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia. Siết chặt điều kiện và đối tượng vay có bảo lãnh. Đặc biệt, cần thực hiện nghiêm quy định trong Nghị định 94/2018/NĐ-CP buộc người đứng đầu cơ quan, tổ chức phải giải trình và chịu xử lý kỷ luật, kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, khi để xảy ra vi phạm pháp luật về quản lý nợ công (sử dụng vốn vay sai mục đích, cố ý làm trái quy định) làm phát sinh rủi ro tăng nợ công…; trục lợi và tham nhũng trong sử dụng ODA, quản lý đầu tư công và chi tiêu NSNN, cũng như trong các hoạt động quản lý Nhà nước khác.
Việc từ 1/7/2018 Luật Quản lý nợ công và cả 6 Nghị định hướng dẫn thi hành luật này cùng lúc có hiệu lực là một bước tiến mạnh mẽ không chỉ về nhận thức và mức độ hoàn thiện thể chế quản lý nợ công, mà còn về chất lượng xây dựng văn bản pháp luật Nhà nước nói chung. Qua đó chấm dứt tình trạng “cha chung không ai khóc” trong quản lý nợ công, kiên quyết không để nợ công trở thành gánh nặng kiểu “đời cha ăn mặn, đòi con khát nước”, tước đi cơ hội của thế hệ tương lai…