Những điểm sáng kinh tế 6 tháng đầu năm 2024
Một trong những điểm nhấn tích cực nhất trong bức tranh kinh tế 6 tháng là hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu gặp nhiều khó khăn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm vẫn đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ; trong đó xuất khẩu đạt 190,08 tỷ USD, tăng 14,5%; nhập khẩu ước đạt 178,45 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước.
Đây là bước chuyển biến rất quan trọng bởi cùng kỳ năm ngoái, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa chỉ đạt 318,6 tỷ USD, giảm 14,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 166 tỷ USD, giảm 11,3%; nhập khẩu đạt 152,6 tỷ USD, giảm 18,0%. Cán cân thương mại hàng hóa 6 tháng đầu năm 2024 ước thặng dư 11,63 tỷ USD, mặc dù vẫn thấp hơn mức thặng dư 13,44 tỷ USD của cùng kỳ năm trước, song kết quả trên cho thấy xuất khẩu tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng trong quý II và 6 tháng đầu năm năm 2024.
Theo Tổng cục Thống kê, xuất khẩu tăng cao theo xu hướng phục hồi nhu cầu tiêu dùng thế giới, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Quý II năm 2024, tăng trưởng kinh tế thế giới có xu hướng tích cực nhờ nhu cầu hàng hóa tăng trở lại, áp lực lạm phát giảm dần, giá trung bình của hàng hóa giảm nhẹ nhờ nguồn cung cải thiện.
Ngoài xuất khẩu, khu vực dịch vụ tăng 6,64% với xu hướng phục hồi tích cực của du lịch, bán buôn, bán lẻ. Trong đó, bán lẻ có thể đạt mức tăng trưởng lợi nhuận quý II tới 379% so với cùng kỳ.
Nhiều ngành khác cũng có xu hướng tích cực. Sản xuất công nghiệp là ví dụ, giá trị tăng thêm toàn ngành 6 tháng là 7,54% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,67%; xây dựng tăng 7,34%, cao nhất trong 5 năm.
Ngoài ra, FDI tăng trưởng tốt, giúp tăng năng lực, mở rộng sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm, cải thiện thu nhập cho người lao động. “Thu hút vốn đầu tư trong sáu tháng đầu năm 2024 tăng cao, phản ánh sự phục hồi của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn FDI đăng ký mới tăng cao so với cùng kỳ năm trước, cho thấy nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam”-
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dần phục hồi sau nhiều tháng gặp khó khăn, số doanh nghiệp gia nhập thị trường tiếp tục cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Số doanh nghiệp gia nhập thị trường trong 6 tháng đầu năm 2024 đạt 119,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 110,3 nghìn doanh nghiệp.
Khó khăn còn phía trước
Với mức tăng này, GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024.
So với 2 kịch bản tăng trưởng theo Nghị quyết 01/NQ-CP dựa trên kết quả tăng trưởng GDP quý 1/2024 thì tăng trưởng GDP quý 2/2024 đã cao hơn so với kịch bản (5,85% ở kịch bản thấp và 6,32% ở kịch bản cao). Đây là kết quả tích cực để Việt Nam theo đuổi “trần trên” của mục tiêu tăng trưởng trong năm 2024 là 6,5%.
Sự phục hồi này cao hơn mọi dự báo trước đó của các tổ chức trong nước và quốc tế. Ngân hàng UOB gần đây chỉ cho rằng, tăng trưởng GDP quý II của Việt Nam khoảng 6%. Thậm chí, ngay trước khi Tổng cục Thống kê công bố số liệu chính thức, Tổ công tác Phối hợp điều hành kinh tế vĩ mô (Tổ 1317) nhóm họp, dự báo đưa ra chỉ 6,2% cho quý II, còn 6 tháng là 6%.
Dù nền kinh tế vẫn đang phục hồi tích cực, với tăng trưởng GDP quý II/2024 ước đạt 6,93%; 6 tháng ước đạt 6,42%, vượt dự báo, vượt cả kịch bản tăng trưởng kinh tế đề ra, song khó khăn phía trước vẫn còn rất lớn.
Nhiều chỉ số kinh tế vĩ mô cho thấy, nền kinh tế đang chịu nhiều áp lực, trong đó lạm phát có thể là điều dễ thấy nhất. Bình quân 6 tháng, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 4,08% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức cận dưới mục tiêu cả năm là 4-4,5%. Quan trọng hơn, CPI đang có có xu hướng tăng qua từng tháng.
Theo cảnh báo từ các chuyên gia kinh tế, lạm phát có thể tiếp tục tăng do biến động nguồn cung, do biến động giá cả trên thị trường thế giới, do nhu cầu sử dụng điện và các dịch vụ như vận tải, du lịch trong mùa cao điểm hè, do lương sẽ tăng từ ngày 1/7 tới, do dự kiến sẽ điều chỉnh một số mặt hàng do Nhà nước quản lý giá, như giá điện, dịch vụ y tế, giáo dục…
Theo Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), đa phần các công ty may của tập đoàn đủ đơn hàng đến tháng 10 và đang đàm phán đơn cho những tháng tiếp theo. Toàn bộ lao động của họ vẫn duy trì lực lượng, thu nhập tương đương năm 2023.
Tuy vậy, một số doanh nghiệp lớn ngành dệt may cũng thừa nhận, sự khởi sắc xuất khẩu dệt may những tháng đầu năm không hẳn từ nhu cầu tiêu thụ của thế giới cải thiện, mà có sự dịch chuyển nhất định đơn hàng từ các quốc gia khác sang Việt Nam.
Chưa kể, các doanh nghiệp cũng gặp thách thức về giá đơn hàng. Theo CEO Vinatex Cao Hữu Hiếu, ngành may còn gặp khó do năm 2022-2023, đơn giá dệt may xuống rất thấp, giảm 20-30%, thậm chí 50%. Do đó, hiện họ phải thương lượng lại với nhà mua để tăng giá lên trong bối cảnh các chi phí như lương cơ sở điều chỉnh từ 1/7.
Bên cạnh đó, chi phí logistics từ cuối năm ngoái liên tục tăng, xung đột biển đỏ khiến nhập bông bị trễ, bị kiểm tra hải quan cũng là những khó khăn của ngành.
Trong khi đó, tiêu dùng nội địa đã cải thiện nhưng vẫn chưa đạt kỳ vọng. Minh chứng là trong 6 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (sau khi loại trừ yếu tố giá) chỉ tăng 5,7%, thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng.
“Doanh nghiệp, người dân vẫn có tâm lý thắt chặt tiêu dùng, đầu tư do triển vọng kinh tế vẫn là ẩn số. Điều này phản ánh qua chỉ số tăng trưởng tín dụng thấp nhưng lượng tiền gửi của người dân vào ngân hàng tăng”- TS Nguyễn Quốc Việt - Phó viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (Đại học Quốc gia Hà Nội) phân tích. Cùng với đó, sự phát triển của thương mại điện tử, hàng giá rẻ từ nước ngoài, không chỉ Trung Quốc ảnh hưởng lớn tới hàng nội địa.
Với sản xuất công nghiệp, 6 tháng qua, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 tăng 7,54% so với cùng kỳ năm trước và dù ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định vị thế là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế, nhưng trong khi có 56 địa phương có Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng, thì vẫn có 7 địa phương giảm.
Theo số liệu thống kê, một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn như bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ôtô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác hay tài chính, ngân hàng... đều có mức tăng thấp hơn so với 6 tháng đầu năm 2023.
Giải ngân vốn đầu tư công có xu hướng chững lại, không tăng mạnh, cho dù tổng nguồn lực đầu tư công năm nay thấp hơn năm ngoái. Đặc biệt là vẫn còn một số bộ, ngành giải ngân 0%, thậm chí chưa phân bổ vốn kế hoạch…
Làm mới các động lực tăng trưởng
Thách thức, khó khăn phía trước là không nhỏ. Về các giải pháp cụ thể, Vụ trưởng Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia, Tổng Cục Thống kê Nguyễn Thị Mai Hạnh kiến nghị: các ngành, lĩnh vực cần bám sát tình hình sản xuất kinh doanh để chủ động ứng phó với rủi ro phát sinh, tập trung vào các chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giải phóng nguồn lực cho khu vực doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và các ngành dịch vụ thị trường; Tăng cường gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi nhằm kết nối cung cầu; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện giải ngân hiệu quả vốn đầu tư công để đảm bảo hoàn thành mục tiêu và lan tỏa tới các ngành kinh tế khác; đẩy mạnh triển khai các hoạt động kích cầu tiêu dùng nội địa; Tiếp tục đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại, tranh thủ tối đa cơ hội, xu hướng phục hồi của các thị trường để đẩy mạnh xuất khẩu.
Doanh nghiệp tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, như những hạn chế của môi trường kinh doanh chưa được khắc phục ngay, khó khăn về vốn, chi phí đầu vào vẫn ở mức cao trong khi thị trường đầu ra khó khăn… Tổng Cục Thống kê cho rằng cần “làm mới” động lực tăng trưởng cũ, khai thác hiệu quả động lực tăng trưởng mới đặc biệt là các động lực như phát triển kinh tế số, tăng năng suất lao động và năng suất các yếu tố tổng hợp, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế…
Để kích cầu, Quốc hội đã quyết định tiếp tục giảm 2% thuế VAT với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đến hết năm nay. Một số chuyên gia khuyến nghị nên kéo dài chính sách giảm thuế VAT đến hết năm 2025. Thậm chí, họ đề xuất giảm thuế VAT nên ở mức sâu hơn, để người dân thấy ý nghĩa và quyết định mua sắm nhiều hơn.
Báo cáo của Bộ KH&ĐT cũng nhận định, bối cảnh hiện tại đòi hỏi phải quyết liệt thực thi hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, khơi thông dòng tín dụng, đẩy nhanh giải ngân đầu tư công… để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, coi trọng thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát cũng là điều cần được tính đến.
Kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm cần đảm bảo thực hiện quyết liệt, đồng bộ, linh hoạt các chính sách tài khóa và tiền tệ, chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đảm bảo ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và cân đối các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, kiểm soát tốt lạm phát. Tiếp tục làm mới các động lực tăng trưởng tạo đột phá cho hợp tác kinh tế đối với hạ tầng chiến lược. Với phương châm chỉ đạo “không bàn lùi, chỉ bàn làm”, bản lĩnh, chủ động, nêu cao tinh thần quyết tâm, tin rằng, với sự chung tay, nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị, bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp và người dân, thì mục tiêu tăng trưởng cận trên (6,5%) có cơ sở để đạt được. (Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia - Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Mai Hạnh)