Tại Hà Nội, làng Chuông (xã Phương Trung, huyện Thanh Oai) từ lâu đã được biết đến với nghề truyền thống làm nón lâu đời, thu hút đông đảo khách trong nước và quốc tế.
Nhóm lại lửa nghề
Sau gần 40 phút đi xe, chúng tôi đến với làng Chuông. Ngay từ khi mới đặt chân đến nơi này, chúng tôi cảm nhận được sự bình dị, mộc mạc qua từng con ngõ, nếp nhà và sự gần gũi, chất phác của con người dân nơi đây. Trong thơ ca xưa, khi nói về làng Chuông, người dân mọi nơi đều biết đến câu thơ lục bát: “Muốn ăn cơm trắng cá trê/ Muốn đội nón tốt thì về làng Chuông”. Nghề làm nón cổ truyền với những chiếc nón qua bao thăng trầm vẫn giữ được dấu ấn riêng bởi sự chắc chắn, bền bỉ với thời gian và kiểu dáng đẹp.
Vẻ đẹp của những chiếc nón lá làng Chuông vẫn được lưu giữ đến ngày nay. Ảnh: Phương Linh |
Theo lịch sử ghi lại, ông Hai Cát là người có công mang nón Xuân Kiều còn gọi là nón Ba Đồn về làng sản xuất thay thế cho các loại nón cổ.
Thời đó, chiếc nón quai thao là điểm tựa kinh tế vững chắc cho người dân. Nhưng từ khi nền kinh tế thị trường mở cửa, người làng Chuông phải đi khắp nơi bươn chải mưu sinh khiến ngôi làng gần một trăm nóc nhà chỉ còn lưa thưa hình bóng của người già, trẻ nhỏ. Người dân làng Chuông không còn tha thiết về nghề truyền thống, hình ảnh những chiếc nón quai thao dần mai một.Những năm gần đây, khi đời sống kinh tế phát triển, người dân tìm lại với các giá trị văn hoá truyền thống, nghề làm nón quai thao dần phục hồi. Người dân làng Chuông tiếp tục có cơ hội giữ lửa nghề mà ông cha để lại.
Độc đáo nghề làm nón
Để có thể hiểu thêm về nghề làm nón truyền thống ở làng Chuông, chúng tôi tìm đến nhà ông Phạm Văn Nông (70 tuổi) – một người gắn bó với nghề làm nón từ những ngày thơ ấu. “Gia đình tôi đã làm nón từ rất lâu rồi. Ai cũng đều biết làm hết. Trẻ con trong gia đình cũng có thể phụ giúp người lớn những công việc nhỏ”, ông cho biết.
Ông Phạm Văn Nông say sưa làm nón. Ảnh: Phương Linh |
Những chiếc lá mo được lựa chọn cẩn thận để làm nên chiếc nón bền đẹp - Ảnh: Phương Linh |
Chóp nón được ông Nông đan bằng tay, sợi cước trắng mềm được ông sử dụng là loại cước chỉ miền Nam mới có. Mỗi một loại nón lại có một chóp khác nhau, nón ba tầm sử dụng chóp bằng, dày hơn, cứng hơn, trong khi đó nón lá truyền thống lại dùng chóp nhọn mềm và mảnh hơn.
Những chi tiết nhỏ như chóp nón cũng được ông Nông tỉ mỉ đan bằng tay. Ảnh: Phương Linh |
Theo ông Nông, một ngày chỉ làm được một chiếc nón. Đối với người lao động bình thường, giờ làm việc một ngày là 8 tiếng, còn với những người làm nón, một ngày 12 tiếng nhưng cũng chỉ đủ để làm một chiếc nón, thậm chí những loại nón lớn như nón ba tầm, nón quai thao phải làm trong 2 ngày. Điều đặc biệt về sản phẩm nón của gia đình ông Nông là nón không bán ở chợ, chỉ làm theo đơn đặt hàng của khách hàng.
Chiếc nón chứa đựng niềm tự hào của người dân làng Chuông. Ảnh: Phương Linh |