Trong đó, 2 đồ án quy hoạch lớn, mang tầm vóc bao trùm, toàn diện đang được giới chuyên gia, Nhân dân kỳ vọng là những bản quy hoạch chất lượng mang tính khả thi cao, đủ sức dẫn dắt Thủ đô phát triển xứng tầm trong giai đoạn mới.
Cần tính đến các nguồn lực thực hiện
Là người nhiều năm gắn bó và hiểu rõ về công tác quy hoạch của Hà Nội, TS. KTS Đào Ngọc Nghiêm - Phó Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, nguyên Giám đốc Sở QH – KT Hà Nội chia sẻ, trong suốt 70 năm qua, công tác quy hoạch luôn được Đảng, Quốc hội, Chính phủ, cả nước và TP Hà Nội quan tâm. Kết quả về công tác quy hoạch của TP được đánh giá là nổi trội, đồng bộ và khoa học (đã có 7 lần quy hoạch chung được phê duyệt).
Để đáp ứng yêu cầu phát triển, hiện nay TP đang tổ chức lập Quy hoạch Thủ đô thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 (theo Luật Quy hoạch) và điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô đến 2045 tầm nhìn 2065 (theo Luật Quy hoạch đô thị). Cùng đó, TP cũng đang triển khai sửa đổi, bổ sung Luật Thủ đô, trong đó có nhiều cơ chế, chính sách liên quan đến thực hiện quy hoạch.
Quy hoạch Thủ đô và điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô được lập trong bối cảnh toàn cầu đã bước sang kỷ nguyên phát triển công nghiệp lần thứ tư. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại, như hệ thống thông tin địa lý - GIS; quản lý công trình - BIM; hệ thống quản lý tư liệu điện tử - EDMS… vào công tác nghiên cứu lập các quy hoạch trên là hết sức càn thiết. Thực hiện điều này sẽ giúp chúng ta giải bài toán quy hoạch tích hợp đa ngành. Đó cũng chính là yêu cầu đặt ra để các bản quy hoạch mới có tính khả thi chứ không phải là quy hoạch “treo”.
Ủy viên Thường vụ Hội KTS Hà Nội Trần Huy Ánh
Theo đánh giá của TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm, đây là thời cơ ngàn năm có một để phát triển Thủ đô xứng tầm trong giai đoạn mới. Cả 2 quy hoạch đã được nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, cập nhật thông tin và cơ bản bám sát nhiệm vụ thiết kế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hơn nữa, các chính sách đặc thù xác định trong Luật Thủ đô (sửa đổi), tạo động lực phát triển cũng đang hoàn chỉnh để trình Quốc hội. Do đó, rất cần các đơn vị tư vấn phối hợp chặt chẽ và trách nhiệm trong tiếp thu các ý kiến tư vấn, phản biện để góp phần nâng cao chất lượng quy hoạch, thực sự trở thành những căn cứ quan trọng cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô.
TS Nguyễn Quang - nguyên Giám đốc Chương trình định cư con người của Liên Hợp quốc tại Việt Nam khuyến nghị, bài học về tầm nhìn “đầy ước vọng” nhưng thiếu tính khả thi vì không đủ nguồn lực đã xuất hiện trong lịch sử phát triển của Hà Nội. Để quy hoạch mới mang tính khả thi, vị chuyên gia đề xuất nên áp dụng phương pháp quy hoạch chiến lược với việc đưa ra định hướng phát triển dựa trên các mục tiêu lớn, tầm nhìn, nhưng cũng cần xác định các vấn đề cơ bản cần ưu tiên. Quy hoạch hướng tới việc giải quyết các vấn đề, tập trung vào hành động, đồng thời xem xét thực trạng các nguồn lực thực hiện.
Dẫn ví dụ, TS Nguyễn Quang cho hay, nhiều TP như Seoul, Singapore, Thượng Hải, Dương Châu, Cairo, Medellín... đã vươn mình nhờ chiến lược tái cấu trúc táo bạo, gắn kết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường. Chìa khóa cho sự thay đổi đó nằm ở những hành lang phát triển kết nối sáng tạo những thành tố rời rạc và tự phát. Kết nối, sử dụng đất đa chức năng, phát triển các không gian đô thị sáng tạo, thông minh cho nhu cầu sống, dịch vụ, vui chơi giải trí và làm việc, bảo tồn, tái phát triển đô thị, khai thác cảnh quan các con sông... là những giải pháp cần được ưu tiên.
“Tiềm năng phát triển những không gian sáng tạo và chuyển đổi số cho hội nhập toàn cầu đã hiện hữu ở Thủ đô. Nhưng quan điểm phát triển phải là “thuận thiên”: thuận quy luật tự nhiên, nhu cầu của người dân và các động lực thị trường chứ không phải duy ý chí. Hãy lấy “vì con người gắn trong hệ sinh thái” làm động lực và mục tiêu cho sự phát triển Hà Nội” - TS Nguyễn Quang góp ý.
Ứng dụng công nghệ, tích hợp đa ngành
Ủy viên Thường vụ Hội KTS Hà Nội Trần Huy Ánh cho rằng, với ngân sách hạn hẹp, nguồn lực đất đai cạn dần, các đồ án quy hoạch lớn mà Hà Nội đang thực hiện cần được nghiên cứu mang tính tích hợp đa ngành cao. Ví dụ như giao thông đường bộ phải liên kết với đường thủy, đường sắt; đường sắt đô thị phải liên kết với đường sắt quốc gia và đường sắt ngoại ô; đường sắt đô thị tốc độ cao, khối lượng lớn kết hợp với tàu điện. Nâng cấp hiện đại hóa đường sắt từng bước gắn với xe buýt thường, xe buýt ưu tiên trên mặt đất cũng như trên cao, có khả năng chuyển đổi từ buýt trên cao thành đường sắt đô thị trên cao. Phát triển giao thông gắn với đô thị theo định hướng TOD. Đầu tư đường sắt đô thị ngầm kết hợp với phát triển thương mại dịch vụ, bãi đỗ xe ngầm, bể ngầm, sông ngầm trong phố...
Cùng quan điểm trên, Phó Tổng Thư ký Hội Quy hoạch phát triển đô thị
Việt Nam, TS.KTS Trương Văn Quảng nêu, Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị đã quán triệt: “Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, thực hiện nghiêm việc quản lý quy hoạch...”. Điều này đồng nghĩa với việc phải đổi mới phương pháp lập quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị theo hướng quy hoạch tích hợp, bảo đảm phát triển không gian hợp lý, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế, giá trị cảnh quan, văn hóa, lịch sử, tiết kiệm tài nguyên, đất đai, năng lượng, kiểm soát chặt chẽ dân số...
Thay vì sử dụng phương pháp quy hoạch truyền thống với 4 loại quy hoạch chính được lập ra một cách độc lập, các đồ án quy hoạch ngành được tích hợp vào đồ án quy hoạch đô thị thông qua việc xây dựng ngân hàng dữ liệu, cập nhật thông tin các ngành, lĩnh vực đồng bộ, thường xuyên; xây dựng bộ công cụ chuyển hóa nội dung của quy hoạch ngành vào quy hoạch đô thị, làm cơ sở dữ liệu để phân tích, đánh giá hiện trạng và đưa ra các dự báo phát triển có độ tin cậy cao. Việc lập Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045 và tầm nhìn đến năm 2065 đòi hỏi có sự chỉ đạo, điều hành, nghiên cứu các nội dung liên quan hết sức khoa học, chặt chẽ.
Đặc biệt, Nghị quyết 15-NQ/TW của Bộ Chính trị chính là "kim chỉ nam" cho cả hai đồ án quy hoạch trên, định hướng phương án tổ chức không gian chung, hệ thống kết cấu hạ tầng, hệ thống đô thị, nông thôn, các khu chức năng có vai trò động lực... nhằm bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, kế thừa, ổn định và hệ thống giữa các quy hoạch.