Họ sẽ khó có thể lập gia đình và sinh con như những người phụ nữ khác. Tuy nhiên, sự phát triển của y học đã và đang làm thay đổi điều này, nhiều người trong số họ vẫn có thể làm mẹ bình thường.
Cần được tư vấn cẩn thận
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), hàng năm, trên thế giới có khoảng 200 triệu phụ nữ có thai, trong số đó có khoảng nửa triệu sản phụ bị tử vong do các biến chứng có liên quan đến thai nghén. Nguyên nhân tử vong do các bệnh tim mạch thường gặp là tăng huyết áp (12%) và các bệnh tim khác (20%).
Để hạn chế biến chứng, những phụ nữ bị bệnh tim mang thai cần phải có sự tư vấn cẩn thận, theo dõi chặt chẽ và điều trị tích cực của các bác sĩ chuyên khoa tim mạch và chuyên khoa sản.
Đánh giá trước khi có thai
Phụ nữ bị bệnh tim nên được đánh giá tình trạng sức khỏe trước khi mang thai. Việc thăm khám cẩn thận tình trạng tim mạch và đánh giá khả năng gắng sức là hết sức quan trọng để xác định khả năng dung nạp của bệnh nhân với những thay đổi về huyết động trong quá trình mang thai và nguy cơ bị biến chứng trong thời kỳ chuyển dạ và đẻ. Việc tiên lượng trước nguy cơ của thai nghén dựa trên kết quả thăm khám lâm sàng và các thăm dò cận lâm sàng nên được bàn bạc với bệnh nhân và các thành viên trong gia đình bởi cả bác sĩ tim mạch và bác sĩ sản khoa.
Cần chú ý rằng, sự thay đổi sinh lý về giải phẫu và chức năng của hệ thống tim mạch trong thời kỳ mang thai có thể gây ra các triệu chứng và dấu hiệu giống như bệnh tim. Các triệu chứng này bao gồm mệt mỏi, giảm khả năng gắng sức, thở gấp, hồi hộp, chóng mặt, và thậm chí ngất. Khám thực thể thường phát hiện thấy tĩnh mạch cảnh đập, phù chân, sờ thấy mỏm thất phải đập, và nghe thấy tiếng thổi tâm thu. Do vậy, trong nhiều trường hợp cần phải làm các thăm dò để có thêm thông tin chính xác về tình trạng tim mạch trước khi quyết định điều trị.
Chăm sóc
Việc thăm khám trong quá trình mang thai nên định kỳ hàng tháng đối với các bệnh nhân có bệnh nhẹ và 2 tuần với các bệnh nhân có bệnh mức độ trung bình đến nặng cho đến tuần thứ 28 - 30 của thai kỳ, sau đó thăm khám hàng tuần đến khi sinh. Khi cần thiết phải sử dụng thuốc để điều trị, nên sử dụng liều thuốc thấp nhất có hiệu quả điều trị cho mẹ và an toàn cho thai nhi.
Khi chuyển dạ và đẻ nên được bàn luận và quyết định bởi bác sĩ sản khoa, bác sĩ tim mạch, và bác sĩ gây mê sản khoa. Đẻ đường dưới với gây tê giảm đau phù hợp sẽ an toàn và có thể thực hiện được ở hầu hết bệnh nhân có bệnh tim. Phẫu thuật lấy thai có nguy cơ bị biến chứng cao hơn và nên được tiến hành theo chỉ định của bác sĩ sản khoa. Theo dõi huyết động trong quá trình chuyển dạ và đẻ được khuyến cáo cho các bệnh nhân có triệu chứng và ở các bệnh nhân có van tim bị hẹp mức độ vừa đến nặng, rối loạn chức năng thất trái, tăng áp động mạch phổi.
Theo dõi sau khi sinh
Thay vì mất máu khi sinh, giai đoạn sớm sau khi sinh có sự tăng dòng máu tĩnh mạch trở về tim. Những thay đổi về huyết động đó có thể dẫn đến suy tim. Do vậy, những trường hợp này cần phải tiếp tục theo dõi huyết động 12 - 24 giờ sau khi sinh.
Những bệnh nhân bị bệnh tim có tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết cao hơn khi chuyển dạ và đẻ. Vi khuẩn được phát hiện thấy trong máu ở 14% phụ nữ sau khi chuyển dạ hay vỡ ối, và rất nhiều vi khuẩn phân lập được có khả năng gây viêm nội tâm mạc. Khi bị biến chứng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, tỷ lệ tử vong của mẹ khoảng 22% và thai nhi khoảng 15%. Vì bệnh nhân bệnh tim có nguy cơ cao bị nhiễm khuẩn máu, thậm chí cả trong quá trình sinh nở không biến chứng, hậu quả nặng nề của viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn và giá thành điều trị tương đối thấp nên việc sử dụng kháng sinh dự phòng khi chuyển dạ được chỉ định cho tất cả các bệnh nhân có bệnh tim.
Kiểm tra sức khỏe cho bé tại khoa Nhi Bệnh viện Tim Hà Nội. Ảnh: Thanh Hải
|