Nguyên phi Ỷ Lan tên thật là Lê Thị Yến, sinh ngày mồng 7 tháng Ba năm Giáp Thân (1044), người hương Thổ Lỗi (còn gọi là làng Sủi, xưa thuộc huyện Gia Lâm, phủ Thuận An, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội).
Trong hơn nửa thế kỷ (1063-1117) bà trở thành Nguyên phi rồi Hoàng Thái hậu, Nhiếp chính Triều Lý, đức Nguyên phi Ỷ Lan là bậc nữ lưu kiệt xuất, có tài kinh bang tế thế, trọng nông, thương dân, giữ nghiêm phép nước, trừng trị bọn lộng quyền, tham nhũng, được nhân dân xưng tụng là “Lý Đại Mẫu nghi”.
Sử cũ chép rằng, đức vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, thân hành đi cầu tự. Một sớm mùa xuân, vua viếng thăm chùa Dâu (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trai gái, già trẻ các làng nô nức ra rước vua. Duy có cô thôn nữ xinh đẹp của làng Sủi vẫn điềm nhiên hái dâu, xem việc ngự giá của vua không có quan hệ gì đến mình.
Vua Lý Thánh Tông lấy làm lạ, bèn cho đòi người con gái đang đứng bên nương dâu kề gốc lan ấy đến trước kiệu rồng để hỏi. Cô gái ung dung nhẹ nhàng tới quỳ tâu: “Thiếp là con nhà nghèo hèn, phải làm lụng đầu tắt mặt tối, phụng dưỡng cha mẹ, có đâu dám mong đi xem rước và nhìn mặt rồng”.
Vua thấy cô gái tuy ăn mặc quê mùa nhưng cử chỉ đoan trang dịu dàng, lời lời phong nhã, đối đáp phân minh, lễ nghĩa khác người, vua cho cô gái theo long giá về kinh đô. Người cũng cử một nữ học sĩ dạy học cho Yến Nương, phong làm Ỷ Lan phu nhân, gọi cung của nàng là Ỷ Lan. Nền cũ của cung Ỷ Lan nay là chùa Kim Cổ (phố Đường Thành, quận Hoàn Kiếm).
Tháng Giêng năm 1066, Ỷ Lan phu nhân sinh hạ hoàng tử, lấy tên là Kiền Đức (chính là vua Lý Nhân Tông), được vua phong làm Nguyên phi.
Năm Kỷ Dậu (1069), giặc Chiêm Thành xâm lấn bờ cõi nước ta, vua Lý Thánh Tông trực tiếp cầm quân đánh giặc, Thái tử còn nhỏ, vua giao cho Nguyên phi Ỷ Lan trông nom và cai quản triều chính.
Năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Thánh Tông ốm nặng rồi qua đời, Kiền Đức lên ngôi vua, tôn mẹ làm Hoàng Thái hậu Linh Nhân. Vua còn nhỏ tuổi, Thái hậu buông rèm nhiếp chính, cùng hai danh tướng Lý Thường Kiệt và Lý Đạo Thành điều hành việc nước.
Bà coi trọng nông tang, thương dân nghèo khó, giữ nghiêm phép nước, trừng trị bọn lộng quyền, tham nhũng, hoàn thành sứ mệnh mà đất nước, dân tộc giao cho, được vua khen ngợi, các quan trong triều khâm phục, xưng tụng là “Lý Đại Mẫu nghi; được nhân dân và đạo Phật phong là "Như lai xuất thế, Lý triều Thiên Nam Đệ nhất", là “Phật Mẫu” và tôn làm Thành Hoàng của làng Yên Thái, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương cũ (nay thuộc phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm).
Ngày 25 tháng Bảy năm Đinh Dậu (1117), Nguyên phi Ỷ Lan mất, thi hài được hỏa táng theo nghi lễ nhà Phật. Vua dâng tên thụy là Phù Thánh Linh Nhân Hoàng Thái hậu, táng ở Thọ lăng Thiên Đức (làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay).
Đình Yên Thái được xây dựng từ rất sớm và đến ngày nay vẫn giữ nguyên bố cục của một ngôi Đình nhỏ xinh xắn, kiến trúc kiểu chữ công (工) bao gồm nhà Tiền đường, nhà Thiên hương và gian Hậu cung, mang dáng dấp kiến trúc thời Nguyễn.
Đình Yên Thái có một bề dày lịch sử, trong đó còn lưu giữ một khối lượng lớn những di vật, phong phú về loại hình, đa dạng về chất liệu, nhiều về số lượng như bia đá, chuông đồng, kiệu gỗ, nhựa đã, hoành phi, câu đối, đại tự, các đồ khí tự và đặc biệt di tích còn bảo lưu được 10 đạo sắc quý.
Đó là những văn bản tài liệu, hiện vật có giá trị góp phần tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, lịch sử làng xã Việt Nam và nhân vật lịch sử Nguyên Phi Hoàng Thái hậu Ỷ Lan.
Nằm giữa trung tâm Khu phố cổ Hà Nội, Đình Yên Thái từ lâu đã trở hành trung tâm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng của nhân dân, là nơi giới thiệu, quảng bá và phát huy giá trị di tích kết hợp với phát triển du lịch, được Nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia năm 1995.
Ngày 20/8/2022 (tức ngày 23 tháng 7 năm Nhâm Dần), UBND quận Hoàn Kiếm tổ chức Lễ dâng hương kỷ niệm 905 năm ngày viên tịch của Nguyên Phi Hoàng Thái hậu Ỷ Lan.
Lễ dâng hương hoạt động nằm trong Đề án Tổ chức lễ hội truyền thống trong Khu phố Cổ và xung quanh hồ Hoàn Kiếm của quận Hoàn Kiếm. Thông qua Đề án, quận Hoàn Kiếm muốn phục dựng lại Lễ hội Phố cổ nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân về truyền thống yêu nước, tôn vinh những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, hướng mọi người về với cội nguồn dân tộc.
Đây cũng là dịp để mỗi người bày tỏ tấm lòng thành kính đối với công đức của cha ông, tôn thờ những vị thần, anh hùng có công lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.