Những tác phẩm báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mang nhịp đập của thời đại, không chỉ gắn với sự nghiệp đấu tranh cách mạng giai đoạn trước năm 1945 mà còn tiếp tục mở rộng trong các giai đoạn lịch sử sau này. Làm báo để làm cách mạng Sinh ra từ vùng quê Quảng Bình giàu truyền thống yêu nước, trực tiếp chứng kiến cảnh đồng bào bị bè lũ thực dân và tay sai đàn áp, bóc lột, Võ Nguyên Giáp đã nung nấu ý chí quyết tâm tham gia đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Năm 1925, khi còn là học sinh, do sớm được tiếp thu tư tưởng cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Võ Nguyên Giáp đã tích cực tham gia phong trào đấu tranh, bãi khóa ở trường Quốc học Huế, sớm tham gia viết báo.
Năm 1925, khi 14 tuổi, ông vào Huế học trường Quốc học. Chỉ hai năm theo học dưới mái trường Quốc học Huế, ông đã làm quen với nghề báo và bắt đầu viết báo. Năm 1927, đúng 16 tuổi, Võ Nguyên Giáp đã viết bài báo đầu tiên trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, bằng tiếng Pháp: “À bas le tyranneau de Quoc hoc!” (Đả đảo tên tiểu bạo chúa trường Quốc học!) dự kiến gửi đăng trên tờ L’Annam xuất bản tại Sài Gòn. Lúc ấy, Luật sư Phan Văn Trường đang làm chủ bút tờ báo này đã phải thốt lên: "Một cây bút mới xuất hiện lần đầu ở bản xứ này, mà có giọng văn sắc sảo như giọng văn Nguyễn Ái Quốc bên Paris". Năm 1929, Võ Nguyên Giáp bắt đầu làm việc tại Nhà xuất bản Quan Hải Tùng Thư do Đào Duy Anh sáng lập; và tham gia viết báo Tiếng Dân của nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng tại Huế. Võ Nguyên Giáp viết nhiều bài chính phân tích, bình luận sắc sảo tình hình trong nước và thế giới.Tháng 10/1930, Võ Nguyên Giáp bị mật thám bắt ở nhà in báo Tiếng Dân trong vụ “cứu tế Nghệ An Đỏ” bị tuyên án 2 năm tù, giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế). Cuối năm 1931, do có Hội Cứu tế Đỏ Pháp đấu tranh, Võ Nguyên Giáp và một số người khác được trả tự do và đưa về quản thúc ở quê nhà Quảng Bình cho đủ hạn 2 năm theo án tù đã tuyên. Võ Nguyên Giáp ra tù ngày 15/11/1931 vào lúc vừa tròn 20 tuổi và bị cấm làm báo. Năm 1936, tình hình chính trị nước Pháp có những chuyển biến có lợi cho Nhân dân Đông Dương. Thời gian đó, Võ Nguyên Giáp ở Hà Nội và tham gia giảng dạy ở trường Thăng Long – Hà Nội. Đúng lúc này, tờ Hồn trẻ của Hướng đạo sinh đang thua lỗ phải tạm ngừng xuất bản, chủ nhiệm báo sẵn sàng nhượng lại bản quyền. Võ Nguyên Giáp bàn với Đặng Thai Mai và các giáo sư trường Thăng Long cùng nhau góp tiền để làm cho tờ báo sống lại với một nội dung hoàn toàn mới. Hồn trẻ là tờ báo tiếng Việt đầu tiên rất được bạn đọc hoan nghênh, in ra không đủ bán. Thấy rõ sự “nguy hại” của Hồn trẻ, các nhà cai trị thực dân vội vã đóng cửa báo sau khi ra được 12 số.Khi biết việc ra báo tiếng Pháp dễ hơn báo tiếng Việt, Võ Nguyên Giáp đã chuyển sang làm báo tiếng Pháp. Ông cộng tác với Nguyễn Thế Rục, đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, sinh viên trường đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, xuất bản tờ Le Travail (Lao Động). Ngày 16/9/1936, Báo Le Travail xuất bản, ông vừa là chủ bút, vừa là biên tập viên chính. Tuy nhiên, ra được 30 số, tới ngày 16/4/1937, Le Travail lại bị thực dân Pháp đóng cửa. Việc xuất bản vẫn được Võ Nguyên Giáp duy trì, khi tờ này bị cấm, ông cho ra đời tờ khác ngay. Báo tiếng Pháp có các tờ Rassemblement (Tập hợp), En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta); báo tiếng Việt có các tờ Thế giới, Đời nay, Tin tức, Ngày mới… công khai cổ động đấu tranh với các khẩu hiệu dân sinh, dân chủ, đòi đại xá chính trị phạm, ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp. Tại Đại hội Báo giới Bắc kỳ lần thứ I họp ngày 24/4/1937, nhà báo Võ Nguyên Giáp được bầu làm Chủ tịch, nhà báo Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch. Tháng 5/1940, khi cuộc chiến tranh thế giới II đã nổ ra, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng được Xứ ủy Bắc kỳ điều sang Vân Nam (Trung Quốc). Nhà báo cách mạng Võ Nguyên Giáp đã chính thức gặp, hoạt động và làm báo cùng với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.“Vũ khí đặc biệt” - Lời hiệu triệu non sông Từ năm 1941 đến năm 1945, dù rất bận rộn trong việc chuẩn bị lực lượng vũ trang cho cuộc Tổng khởi nghĩa, nhưng Võ Nguyên Giáp vẫn luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tuyên truyền của một nhà báo cách mạng. Sau chiến thắng Nà Ngần, Phay Khắt, ông cho ra tờ báo viết tay Tiếng súng reo - một loại “vũ khí đặc biệt” của bộ đội ta hồi đó, được phát hành vào cuối tháng 12/1944. Đây là tờ báo đầu tiên của lực lượng vũ trang. Khi T.Ư thành lập Mặt trận Việt Minh, chúng ta thống nhất xuất bản báo Việt Nam độc lập, Bác Hồ đã phân công Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết bài đăng trên báo này. Không chỉ viết cho báo Việt Nam độc lập, thời gian này, Võ Nguyên Giáp còn làm chủ bút, chỉ đạo biên tập từ số 1 (ra ngày 20/6/1945) đến số 5 (ra ngày 5/8/1945) báo Nước Nam mới của Khu giải phóng; đồng thời đảm nhiệm báo Quân giải phóng của Việt Nam giải phóng quân.
Khi Cách mạng tháng Tám thành công, với vai trò Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam tại chiến khu, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục viết báo. Những bài chính luận của ông đăng trên các báo và tạp chí xuất bản ở chiến khu trong 9 năm kháng chiến trường kỳ đã truyền đạt đường lối, chỉ đạo chiến lược và chiến thuật, tổng kết rút kinh nghiệm, đề ra phương châm tác chiến cũng như xây dựng cho lực lượng vũ trang cách mạng từng bước phát triển, càng đánh càng thắng lớn, càng đánh càng vững mạnh... Giai đoạn 1955 - 1975, những năm chống Mỹ cứu nước, Đại tướng tiếp tục có nhiều bài chính luận sâu sắc về đường lối chiến tranh Nhân dân, đường lối xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương, về công tác Đảng, công tác chính trị trong quân đội, về phương châm tác chiến để đánh bại từng chiến lược chiến tranh trên mỗi bước “leo thang” của địch. Những bài chính luận đó của Đại tướng đã góp phần quan trọng bổ sung, phát triển kho tàng lý luận và nghệ thuật quân sự Việt Nam, làm giàu thêm kho tàng văn hóa Việt Nam...Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất 30/4/1975 và giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn tiếp tục viết. Trong bài báo đăng trên báo Tin tức (Thông tấn xã Việt Nam) số đặc biệt tháng 5/1990, Đại tướng khẳng định:“Chúng ta có quyền tự hào về Bác, cần phải phát huy sáng tạo tư tưởng của Bác tìm ra những giải pháp cho những vấn đề của công cuộc đổi mới hôm nay”. Điều này thể hiện sự học tập nghiêm túc tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh của Đại tướng. Ngày 14/1/1991, tại Hội nghị quốc tế Hồ Chí Minh - Việt Nam - Hòa bình thế giới ở Cancutta (Ấn Độ), Đại tướng có bài phát biểu “Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi”. Nội dung các bài viết đã nâng việc nghiên cứu tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Bác lên một tầm cao mới, làm nổi bật những vấn đề cơ bản, đồng thời soi chiếu vào thực tiễn hôm nay để thấy nhiều điều cần phải học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh như Đảng đã kêu gọi và tích cực tổ chức thực hiện...Hào hùng và lay độngNhững bài báo chính luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp được trải dài từ các cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và trong cả sự nghiệp đổi mới đất nước. Các tác phẩm của Đại tướng hừng hực chất lửa, đanh thép, sắc sảo mà sâu lắng, lay động lòng người bằng lập luận chặt chẽ, giàu hình ảnh, ngôn ngữ đặc sắc, có dấu ấn riêng và thực sự là những tiếng kèn xung trận bởi tính sắc bén, sinh động và kịp thời.Bằng bút pháp độc đáo, khúc triết, lập luận vững vàng, lời văn hào hùng, điêu luyện, các bài chính luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều mang hơi thở của thời đại và giá trị thời đại qua những khát vọng của Nhân dân trong thời chiến; những tâm tư, tình cảm và những băn khoăn của Nhân dân trong thời bình.Nói về phong cách báo chí của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cố nhà báo lão thành Đỗ Phượng từng chia sẻ: Đại tướng Võ Nguyên Giáp người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc mà còn là một bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam. Ở trong ông, có một mối quan hệ đặc biệt giữa nghề văn và nghề võ, giữa nghệ thuật báo chí và nghệ thuật quân sự, giữa “nghệ thuật tổ chức thông tin” trong làm báo với “nghệ thuật bày binh bố trận” trong đánh giặc. Năm 1950, bước vào chiến dịch biên giới Thu Đông - giai đoạn khó khăn, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tuyên truyền, Bộ Tổng Tư lệnh dưới sự chỉ đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định sáp nhập 2 tờ báo Vệ Quốc quân và Quân du kích thành một tờ báo thống nhất dành cho quân đội và dân quân Việt Nam có tên Quân đội nhân dân. Đầu năm 1954, khi quân và dân cả nước bước vào chiến dịch Điện Biên Phủ, Báo Quân đội nhân dân đã theo chân Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào tận căn cứ Mường Phăng.
Lãnh đạo báo đã mạnh dạn báo cáo Đại tướng cho tổ chức một điểm tòa soạn ngay tại tiền phương với 5 cán bộ phóng viên. Đây là tòa soạn duy nhất trong lịch sử Báo chí cách mạng Việt Nam tổ chức xuất bản báo ngay tại mặt trận. Mặc dù bận trăm công nghìn việc ngoài chiến trường, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng các cộng sự vẫn trực tiếp viết và chỉ đạo xuất bản 33 số báo Quân đội nhân dân cho đến ngày thắng lợi chiến dịch. Những tờ báo được phát hành trực tiếp đến các cán bộ, chiến sĩ ngay tại chiến hào. Điều này đã góp phần động viên rất lớn tinh thần và ý chí quyết thắng của dân tộc ta để rồi chúng ta làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.Sau ngày hòa bình lập lại tại miền Bắc (1954), khi đất nước thống nhất hoàn toàn (1975) và giai đoạn cả sau này, dù bận nhiều việc công tác Đảng và chính quyền, đến lúc về hưu tuổi cao, sức yếu, Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn đều đặn viết cộng tác cho nhiều tờ báo, không chỉ trong nước mà cả báo chí nước ngoài. Tinh thần chiến đấu và đạo đức người làm báoTrải qua nhiều cương vị lãnh đạo, Đại tướng luôn quan tâm đến giới báo chí và Hội Nhà báo Việt Nam. Tình cảm của Đại tướng dành cho báo chí cách mạng Việt Nam và các phóng viên, nhà báo là vô bờ bến. Năm 1991, Hội Nhà báo Việt Nam đã trao tặng Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Huy chương Vì sự nghiệp báo chí Việt Nam”. Giáp Tết Âm lịch năm 2000, Hội Nhà báo Việt Nam mở Hội báo Xuân - Mừng Đất nước bước vào thế kỷ XXI. Hội báo đã vui mừng được tiếp đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm. Hôm đó, các đồng nghiệp báo chí và khách tham quan như cuốn theo thành một hàng dài đi theo bước chân Đại tướng.
Trước khi chia tay, Đại tướng căn dặn: “Làm báo bây giờ nhanh nhạy hơn trước nhiều. Nhưng các bạn nên nhớ: Thông tin phải chính xác, đúng sự thật. Vì thông tin đúng sự thật là vũ khí mạnh nhất của báo chí Cách mạng”. Với báo Quân đội nhân dân, Đại tướng đã dành sự quan tâm đặc biệt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh: “Thời điểm ra báo là quan trọng. Khó hơn là làm nghệ thuật. Nghĩa là làm báo phải đúng lúc, chính xác, chặt chẽ, đem lại hiệu quả cho bạn đọc”. Trong cuộc đời làm báo của mình, tôi may mắn được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần. Tôi nhớ mãi sự kiện tại Nhà hát lớn đêm 20/5/2005 lúc Đại tướng đứng nói chuyện suốt gần một giờ với 1.000 anh hùng, dũng sĩ, cựu chiến binh tiêu biểu tham gia cuộc hành quân xuyên Việt “Tiếp lửa truyền thống, vang mãi khúc quân hành” nhân dịp kỷ niệm 30 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam do báo Quân đội nhân dân tổ chức mà tôi được giao nhiệm vụ là Phó Chỉ huy cuộc hành quân. Trước đoàn quân chiến thắng sắp bước vào cuộc hành quân đặc biệt trong thời bình, hôm đó, giọng Người đầy sức truyền cảm khi gợi về những năm tháng cả dân tộc chiến đấu vì độc lập tự do, phong thái Người thật uy lẫm khi phát lệnh hành quân. Đó là cuộc nói chuyện được truyền hình trực tiếp cuối cùng của Đại tướng với quốc dân, đồng bào.Một năm sau, trong cuộc tiếp đoàn đại biểu báo Quân đội nhân dân vào ngày 18/6/2006, nhân dịp Báo được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, bắt tay từng người, Đại tướng ân cần căn dặn: “Báo Quân đội nhân dân là cơ quan ngôn luận của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, là tiếng nói của các lực lượng vũ trang Nhân dân và Nhân dân. Tờ báo cần nêu cao tinh thần chiến đấu, phải có tiếng nói đúng đắn trung thực, phải nêu cao đạo đức của người làm báo, đấu tranh làm sáng tỏ chân lý, bảo vệ chân lý. Phải nêu cái đúng cái tốt để toàn quân, toàn dân làm theo. Phải vạch cái sai để sửa chữa, đúng như Lênin nói: Báo chí là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể. Chúc báo Quân đội nhân dân luôn xứng đáng với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân”. Đại tướng còn dặn thêm: “Đạo đức của người làm báo, đó là điều quan trọng nhất. Tôi cũng từng là nhà báo, tôi mong các đồng chí, các cháu ở báo Quân đội nhân dân cố gắng rèn luyện không ngừng”.Một kỷ niệm khác còn in đậm trong tâm trí tôi, ngày 7/5/2009, lần cuối cùng, tôi lúc đó đang là Tổng Biên tập báo Hànộimới cùng các cán bộ, phóng viên vinh dự được Đại tướng tiếp nhân kỷ niệm 55 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ở tuổi 99, sức đã yếu đi nhiều so với vài năm trước, nhưng hôm đó Đại tướng rất vui. Người ân cần căn dặn chúng tôi: “Tờ báo Hànộimới có vị trí, vai trò quan trọng, phải có tiếng nói đúng đắn, trung thực, làm sáng tỏ chân lý, bảo vệ chân lý. Phải nêu cái đúng, cái tốt để toàn dân làm theo. Tinh thần chiến đấu, đạo đức người làm báo, đó là điều quan trọng nhất. Thăng Long - Hà Nội tròn 1.000 năm tuổi là cột mốc lịch sử trọng đại, ý nghĩa sâu sắc, niềm tự hào to lớn. Tờ báo của Thủ đô cần có nhiều bài viết thật hay về sự kiện này; cần cổ vũ, xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch của người Hà Nội, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa, tinh thần cao quý của dân tộc ta”.Như vậy, ở cả hai cuộc gặp, đối với báo Quân đội nhân dân cũng như với báo Hànộimới - hai tờ báo đều do Bác Hồ đặt tên - Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều nhấn mạnh đến hai yếu tố đặc biệt quan trọng là tinh thần chiến đấu và đạo đức người làm báo. Sau cuộc gặp ngày 7/5/2009 đó, chỉ một thời gian ngắn, Đại tướng đã phải vào Viện 108 điều trị và điều dưỡng cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời. Ngày 4/10/2013, Đại tướng qua đời, lòng dân đau tiếc, đất trời, sông núi khóc thương. Nhưng trong nỗi đau lớn lại đột ngột thấy sức mạnh và lòng tự hào hội tụ, kết nối của cả một đất nước, một dân tộc đang vững tin đi tới tương lai. Tấm gương làm báo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn ngời sáng, có sức lay động và truyền cảm hứng đối với các thế hệ làm báo Việt Nam hôm nay. Mỗi người làm báo và người quản lý báo chí hiện nay cần nhận thức sâu sắc vai trò, trách nhiệm của mình, ra sức phấn đấu, góp phần xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam giàu tính chiến đấu, nhân văn, chuyên nghiệp và hiện đại vì lợi ích đất nước và Nhân dân.