Nhà văn, nhà biên kịch Lê Phương sinh năm 1933 với tên gọi lúc khai sinh là Nguyễn Văn Tiến, tại làng Thiết Úng thôn Vân Hà huyện Đông Anh, TP Hà Nội.
Mồ côi cha từ khi mới 2 tháng tuổi trong bụng mẹ, 3 tuổi mẹ đi bước nữa… Nguyễn Văn Tiến lớn lên trong sự đùm bọc vừa ân cần vừa nghiêm khắc của đại gia đình, họ hàng… Nhưng có lẽ dù được chăm sóc ân cần yêu thương đến mấy, thì cái nỗi buồn bẩm sinh của sự cô đơn đã dường như thấm đẫm và lặn vào tiềm thức của ông, khiến cho ông dù có vẻ ngoài khá lãng tử và mạnh mẽ lại dễ dàng rơi nước mắt vì một tiếng ru hời.
Cũng có lẽ vì thế, ông đã chọn con đường văn chương là sự nghiệp chính của đời mình dù trước đó từng nhập ngũ từ năm 16 tuổi, 20 tuổi tham gia đơn vị khảo sát chuẩn bị chiến trường cho Chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi 23 tuổi lại hoạt động trong vai trò một chiến sĩ đặc tình thuộc Cục Bảo vệ chính trị Bộ Quốc phòng… thực hiện nhiệm vụ thâm nhập sâu vào giới chủ Hoa kiều ở Hải Phòng.
Ngay khi đã hoàn thành nhiệm vụ phát hiện, giải mã những hoạt động của tổ chức phản động dưới vỏ bọc của một số doanh nhân Hoa Kiều… Nguyễn Văn Tiến, lúc này đã lấy bí danh Lê Phương, lập tức rời quân ngũ để về với bút nghiên, từng manh nha từ khi ông mới 20 tuổi với truyện ký Thử lửa viết về chính công việc mà ông đảm nhận: chỉhuy đội Thanh niên xung phong (tên gọi của lực lượng TNXP thời điểm 1953) làm nhiệm vụ mở đường lên Điện Biên, để rồi khi chiến dịch Điện Biên kết thúc, thì niềm yêu thích chữ nghĩa đã phải tạm dẹp sang một bên cho những nhiệm vụ cấp bách do tổ chức phân công.
Năm 1960, ông trở thành nhà báo rồi nhà văn chuyên viết về công nhân. Lê Phương viết tiểu thuyết "Bất khuất" – cuốn tiểu thuyết đầu tiên về vùng mỏ. Với tiểu thuyết đầu tay này, những hoạt động rất nhiều chất phiêu lưu bí ẩn của các chiến sĩ cách mạng hoạt động trong phong trào công nhân đã được mô tả cực kỳ hấp dẫn, giàu chất điện ảnh đến ngạc nhiên với những tình huống kịch chặt chẽ, đầy kịch tính.
Trong thời gian từ năm 1963-1978, Lê Phương đã cho ra đời khoảng 7 cuốn tiểu thuyết về đủ các lĩnh vực liên quan đến kiến thức chuyên môn sâu như "Pháo đài 44" (về các chiến sĩ pháo cao xạ bảo vệ cầu Hàm Rồng, 1965); "Thung lũng Cô Tan" (địa chất, 1973); "Bạch Đàn" (lâm nghiệp, 1975); "Ngã ba thời gian" (thủy lợi, 1978); "Bông mai mùa lạnh", "Vết xích đường mòn"…
Năm 1977, ông bước sang lĩnh vực điện ảnh với vai trò tác giả kịch bản. Ông viết không nhiều, nhưng mỗi bộ phim được làm từ kịch bản của ông đều để lại những ấn tượng mạnh mẽ cho khán giả. Đó là những bộ phim như: "Nơi gặp của tình yêu", "Câu lạc bộ không tên", "Cơn lốc biển", "Biệt động Sài Gòn" 4 tập (cùng với Nguyễn Thanh)… đều được nhớ đến như những bộ phim mẫu mực của điện ảnh cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt ở giai đoạn từ sau năm 1990, ông bắt đầu chuyển sang viết kịch bản phim truyền hình dài tập mà ông thường gọi là "tiểu thuyết truyền hình". Ông gặt hái thành công với bộ phim "Giọt nước mắt giữa hai thế kỷ" - một trong những bộ phim truyền hình dài tập đầu tiên của Việt Nam.
Nhà văn Lê Phương có vợ là nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã. Họ luôn yêu thương, cùng nhau sáng tạo nên những kịch bản phim để lại nhiều dấu ấn trong lòng công chúng. Tình cảm vợ chồng, tri kỷ của họ khiến nhiều người xúc động.