Monday, 08:09 17/12/2018
Nhiệt điện than: Chưa thể bỏ
Kinhtedothi - Rất nhiều ý kiến lo ngại về ô nhiễm môi trường khi Việt Nam triển khai nhiệt điện than, thậm chí, một số địa phương có xu hướng “tẩy chay” nguồn phát điện này.
Song, trong bối cảnh hội nhập, để đảm bảo nhu cầu cung ứng điện cho sản xuất, sinh hoạt, nhiệt điện than vẫn được đánh giá là năng lượng quan trọng trong cơ cấu nguồn điện.
Chiếm 53% tổng sản lượng điệnTheo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, cả nước sẽ có hơn 70 nhà máy nhiệt điện than. Dự kiến giai đoạn 2018 - 2022, tổng công suất các nguồn điện đưa vào vận hành là 34.864 MW, trong đó nhiệt điện than là 26.000 MW. Tuy nhiên, thực tế tới nay mới chỉ có 7 dự án nhiệt điện than đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với công suất 7.860 MW, còn thiếu 18.000 MW theo yêu cầu.
Báo cáo từ Cục Điện lực và năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cũng chỉ ra, nguồn thuỷ điện lớn và vừa cơ bản đã khai thác hết. Điện năng sản xuất từ thuỷ điện năm 2030 chỉ chiếm khoảng 12,4%. Điện hạt nhân đã được Quốc hội dừng thực hiện. Đối với nguồn điện nhập khẩu hiện nay Việt Nam đang phải nhập khẩu khoảng 1.000 MW từ Trung Quốc và Lào. Con số dự kiến sẽ tăng từ 3 - 5 lần trong thời gian tới. Đối với nhiệt điện khí trong nước, trữ lượng các mỏ bắt đầu suy giảm, chi phí sản xuất điện cao do giá khí cao, sơ bộ giá điện khoảng 2.700 - 2.800 đồng/kWh… Trong khi đó, nguồn nhiệt điện than có giá hợp lý, có vai trò quan trọng trong việc cung ứng điện, lượng điện năng sản xuất năm 2030 của nhiệt điện than chiếm trên 53% tổng sản lượng điện của hệ thống.Thực tế cho thấy, nếu thay 100MW nhiệt điện than tương đương 7 tỷ kWh/năm (giá điện 1.600 đ/kWh) bằng nhiệt điện khí LNG (giá điện 2.100 đ/kWh) sẽ tăng chi phí phát điện thêm khoảng 3.500 tỷ đồng/năm. Không chỉ tại Việt Nam, mà tại nhiều quốc gia, nhiệt điện than cũng đang được xem là xương sống ngành công nghiệp điện.
"Nguồn thải từ nhiệt điện than gồm có khí thải lò hơi; nước thải công nghiệp, sinh hoạt và nước làm mát và chất thải rắn thông thường (bao gồm tro, xỉ), nguy hại. Hiện đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề này và các nhà máy cơ bản đã làm rất tốt. Đặc biệt là việc thực hiện quan trắc liên tục khí thải của nhà máy và truyền số liệu về Sở TN&MT để giám sát, thực hiện quan trắc liên tục (Clo dư, pH, lưu lượng) tại cửa xả để giám sát chất lượng nước làm mát." - Phó Vụ trưởng Vụ Thẩm định đánh giá tác động môi trường (Tổng Cục Môi trường - Bộ TN&MT) Phạm Anh Dũng |