Những chiều vàng hoe nắng

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Xóm Núi nhà tôi vừa nghèo lại vừa heo hút, đâu chừng mươi nóc nhà lại ở rải ra tới tận cửa rừng. Trong xóm duy chỉ nhà tôi và nhà Thơm là gần nhau nhất.

Gia đình tôi với Thơm hoàn cảnh khá giống nhau. Ba tôi mất vì chiến tranh hồi tôi còn chưa biết đi, còn ba Thơm thì mới mất cách đây vài năm vì chứng ung thư dạ dày. Cả hai nhà đều mẹ góa con côi. Tôi hơn Thơm ở chỗ có được em trai, còn nhà nó trơ trọi chỉ hai mẹ con. Do hoàn cảnh vậy nên hai nhà thường chạy qua chạy lại, “tối lửa tắt đèn” có nhau.

Cũng vì hoàn cảnh neo đơn, nhân đất nước vừa thống nhất, dì Bảy - mẹ Thơm - được dịp về giỗ tổ ngoài quê, có đưa theo người cháu họ ở cho ấm cửa ấm nhà. Chú ấy tên là Toản. Từ ngày có chú Toản, xóm Núi cũng bớt đi phần quạnh quẽ. Em trai tôi vừa lên mười nên chưa thể gọi là đàn ông được. Chú Toản ở nhà dì Bảy để làm thợ mộc dạo. Xóm tôi nơi cửa rừng, thuận tiện cho nghề mộc, khi gặp cây gỗ rẻ, chú mua để dành, đóng giường, tủ và những đồ lặt vặt, bán tại nhà. Thu nhập vì vậy cũng tàm tạm, chắc hơn hẳn ngoài quê.
Minh họa: Hoài Văn
Minh họa: Hoài Văn
Chú Toản cùng tuổi Dần như tôi nhưng hơn một giáp, dáng người đậm chắc. Miệng chú hơi hô nhưng bù lại nói cười rất có duyên. Cũng từ ngày có người tuổi Cọp, không riêng gì nhà Thơm, nhà tôi tình cảnh cũng khác hẳn. Khác vì những việc cần đến bàn tay đàn ông mạnh mẽ như nắn lại hàng rào, buộc chặt cửa liếp, thay tấm tranh lợp… nhờ “Cọp” giúp đã đành, mà mẹ tôi cũng thấy sửa sang hơn, quần áo không lùi xùi, lấm lem như trước. Và thỉnh thoảng mẹ lại còn hát nữa. 

Bên nhà dì Bảy có cái giếng nước ngọt rất trong và mát. Trong mát như thể được chắt lọc từ bao tầng đá núi xuống. Nước giếng lạnh nên trước đây những trưa nắng nôi, tôi và Thơm thường rủ nhau tắm truồng bên ấy. Vừa tắm vừa so đọ, trêu chọc mình mẩy của nhau, có khi rượt đuổi vô tư như đèn cù quanh bờ giếng. Giờ có chú Toản thì không vậy nữa. Nhất là từ khi tôi vô tình thấy chú đi làm mộc về, mặc quần đùi mỏng tắm bên bờ giếng. 

Cùng với tháng năm, chúng tôi lớn lên và thay đổi. Cuộc sống nơi góc rừng chân núi nói chung là bình thường nếu không có biến cố ấy. Hôm đó, hai chị em chúng tôi lang thang tìm phế liệu sâu trong cánh rừng phía sau nhà. Đó cũng là công việc chúng tôi thường làm khi nông nhàn, để kiếm thêm tiền.

Vào những năm bảy mươi, rừng núi quê tôi còn khá nhiều sắt thép, khí tài của cuộc chiến tranh rơi rớt lại. Mà sắt cũng đang bắt đầu được giá. Chúng tôi tìm phế liệu không bằng máy móc chi cả. Với cái leng nhỏ và chiếc cuốc chim cũ mòn ba tôi để lại, bằng kinh nghiệm, trực quan của mình, đôi khi chị em chúng tôi cũng vớ bở. Đang lang thang sục tìm chợt nghe một tiếng gầm lớn, tôi vội kéo em Từ thụp xuống. Hai con hổ từ đâu chợt phóng vụt qua. Một nhoáng, những sọc vàng sọc đen trượt đi trong chớp nhìn của hai chị em, rồi mất hút gần như cùng lượt vào vạt tranh cao lút đầu người. Chắc chúng đuổi rượt nhau, hay nếu là con cái, con đực, có thể đang động tình chi đấy. Thật là hú hồn! Thấy cọp nơi tranh vẽ hay trong sở thú là sự thường, nhưng hiếm ai gặp chúng ở nơi hoang dã như chị em tôi. Mà gặp một cặp mới khiếp!

Tôi lại tuổi Dần - Bính Dần. Gặp cầm tinh mình chẳng biết có phải điềm gở hay không nhưng liền sau đó, chị em chúng tôi đào phải trái nổ! Một phần trong việc gặp nạn này cũng do chúng tôi thất thần vì vừa đụng phải “chúa sơn lâm”. May mà mẹ tôi cùng mấy người nữa làm rẫy phía dưới nghe tiếng nổ chạy lên, cáng đi cấp cứu kịp thời. Chẳng biết trái nổ loại gì, song tai nạn đó làm em Từ bị mù một mắt, cụt một tay, còn tôi thì cụt một chân trái.

Chị em tôi rồi cũng dần quen với thương tật của mình. Hai đứa có thể tham gia hầu hết những trò chơi dành cho tuổi nhỏ. Tôi giờ đã có thể chống nạng cười vang, chơi trò nhảy ô với  Thơm hoặc lộc cộc vào ra việc nhà cùng nắng rừng, sương núi. Và như thể mình sinh ra là chỉ có một chân! Cũng may ở nơi heo hút hiếm bạn đồng trang lứa nên tôi ít khi phải đối mặt, chạnh lòng với tình trạng tật nguyền của mình.

***

Những tưởng với thời gian cái gì cũng qua đi, nhưng không phải vậy. Tôi đã là thiếu nữ. Phía bên ngực trái do nạng kích chằng từ nách nên lớn hơn bình thường. Mỗi lần xoa bóp ngực phải cho cân là mỗi lần đụng chạm đến những mơ hồ nơi cơ thể mình. Tôi càng lớn thì nỗi đau tật nguyền càng sâu thêm. 

Người thường nhìn mái tóc dài quất qua quất lại theo trớn xích đi trên nạng gỗ của tôi bằng ánh mắt ngậm ngùi. Cũng may mà gần nhà không có con trai. Ở xóm Núi việc tôi ngại nhất trần đời bấy giờ là lúc buộc phải chống nạng đi qua trước mắt chú Toản. Chống nạng, hình ảnh con gái tật nguyền tôi thấy chẳng hay hớm, đẹp đẽ gì. Cũng may mà chú Toản thường xuyên làm thợ vắng nhà. Nhưng sao tôi lại mắc cỡ, ngại ngùng với người tuổi tác đáng hàng cha chú cơ chứ?

Rồi một hôm chú Toản sang. Chú mang theo một ống sắt vừa kiếm được, nói là ống phóng gì đó của Mỹ, không rỉ sét và bền vô song. Nếu mẹ và tôi đồng ý, chú sẽ gò cho tôi một cái chân giả. Nghe vậy, mẹ nhìn chú với ánh mắt biết ơn nồng nàn. Khi tôi ngại việc đi chân giả sẽ khó khăn, thì mẹ bảo cứ để chú làm cho sinh hoạt dễ dàng hơn.

Từ ấy lúc nào rảnh việc thợ mộc cũng nghe bên nhà dì Bảy tiếng gò đập “binh binh, bong bong” của chú Toản. Phải mất hơn tháng chờ đợi và mấy lần ướm đi thử lại, chú Toản mới làm xong chân giả. Phải nói chú thật khéo tay, không thua thợ gò chính hiệu là mấy. Tuy tiếp xúc sắt thép nhưng khi mang đứng lên, tựa chịu cả người vào chân cũng không gây đau lắm.

Dù vậy, tôi cũng nhăn mặt trong mỗi bước đi thử. Mới đầu thì phải vậy, sau rồi sẽ quen thôi, chú nói. Dưới gót chân, chú tiện vào khúc gỗ vông đồng, loại ngày xưa người ta hay làm guốc mộc. “Thứ gỗ này đi vừa nhẹ, vừa êm, chứ không kêu vang như dộng ống sắt. Bao giờ mòn, chú sẽ thay cho khúc khác. Thợ mộc mà, không lo!”. Chân giả của tôi cơ bản vậy đã ổn, chú nói chỉ cần bắt vít hai mép gối và tìm cái đai da gắn vào nữa là xong.

Một đêm tôi bỗng nằm mơ thấy lại cặp cọp hôm tai nạn dạo nào. Cặp - cọp – tai - nạn ấy đang động tình cùng nhau nơi một gốc cây to. Con cái chẳng biết tự bao giờ mất một chân sau. Cọp cái ba chân đang khuỵu phía sau xuống cam chịu dưới sức nặng vũ phu của con đực… Tôi kêu lên tỉnh giấc và thấy mình ẩm ướt trong ngạc nhiên, bàng hoàng. Mỏm chân trái cụt vẫn còn tê rân rân lan dần khắp cơ thể. Không biết do cái lạnh của đêm đông miền núi hay dư cảm tràn sang từ cặp cọp trong mơ?

Mỗi lần thấy cọp với tôi dường như là một biến cố. Mẹ tôi và em Từ đã đi rẫy từ sớm. Tôi đang hoang mang, kiểm nghiệm vì đêm mơ thấy cầm tinh mình thì chú Toản cầm chân giả sang. Lúc chú lấy ni vòng đùi để dùi mấy lỗ đai da, tôi phải xắn quần cao lên tới bắp vế. Do bên chân cụt ít hoạt động nên đùi tôi thon đi. Và trắng hồng nữa. Tôi ngượng quá nên vòng hai bàn tay ép chặt ống quần, che phía trên bắp vế. Không cả dám nhìn thẳng vào chú.

Cũng may mặt chú cúi xuống đùi và đai da, chỉ có hai vành tai là nhỏng lên, đỏ rừ. “Cháu cứ bỏ tay, đừng nắm chặt phồng lên khiến vòng đo không thật”. 

Sau đó, sự đụng chạm, ve vuốt của bàn tay làm tôi nổi gai ốc khắp cả người. Chú Toản cởi đai, tháo chân tôi ra bằng ánh mắt khát khao như có lửa. Bỗng chú kéo chân lên làm tôi bật ngửa ra bộ ván. Tôi chưa kịp phản ứng, chống cự gì thì người nhũn ra bồng bềnh như giấc mơ gặp cọp đêm rồi. Có điều cọp đực trong mơ thì cắn còn chú lại hôn. Những cái hôn tuy âu yếm, nồng nàn nhưng cũng làm nước mắt tủi cực của tôi trào ra…

Khi việc xong rồi, chẳng hiểu chú Toản biến đi lúc nào. Chỉ thấy bên cạnh chân giả của chú Toản, tôi ngồi khóc một mình nơi bộ ván.

Chiều ấy đi rẫy về, thấy mắt tôi đỏ hoe bên chân giả, mẹ hỏi tôi bảo đau… chân, rồi vô tình buột miệng: “Cũng tại mẹ hết á!”.

Và đêm đó tôi lại nằm mơ thấy cọp. Cọp đực. Nó lẩn khuất trong cánh rừng sau nhà tôi. Khi gần đến cọ quẹt âu yếm tựa mèo nhà, xa lại gầm gừ nhe răng như từ cuối đường mơ tưởng. Tôi thức giấc thì ra con mèo đến nằm ngủ trong lòng tôi. Tôi ôm con mèo, không ngủ lại được trong nỗi buồn mông mênh với sự lo âu về nông nỗi đời mình.

Hai hôm rồi tôi chưa gặp chú Toản. Xế nay, tình cờ thấy mẹ khóc âm thầm một mình nơi chái bếp, tôi vội chạy sang dì Bảy thì con Thơm cho hay chú vừa ra đi. Và có lẽ không bao giờ trở lại! Chỏng chơ bên góc sân nhà vẫn còn những cây gỗ với tủ con, giường nhỏ ngổn ngang!

Chú Toản ra đi vào chiều cuối đông hoe nắng.

Chẳng biết mẹ và chú đã nói với nhau những gì? Thảo nào, hai hôm nay ánh mắt mẹ tôi có gì khang khác. Buồn và sâu thăm thẳm. Và cũng hai hôm nay mẹ không hát câu nào. Chân cẳng như tôi thì làm sao đuổi theo chú. Đuổi theo cho mẹ hết buồn ư? Hơn nữa, làm sao giữ cọp lại khi cánh rừng đã động, nó cương quyết ra đi! Tôi gượng ra rẫy. Chiều lênh loang nắng và chẳng hiểu sao tôi bỗng ngồi khóc ở đấy một mình. Khóc đến thỏa thuê.

 ***

Bây giờ thì mẹ tôi đã mất, em Từ cũng đã lập gia đình. Tôi mấy lần thay chân giả và vẫn còn độc thân. Cái chân chú Toản làm dạo nào, đi cà nhớm cà giựt như kim đồng hồ điện nhảy, tôi cất sâu trên chái bếp như chôn đi những buồn tủi đầu đời. Vợ chồng Từ nhiều bận kêu đến ở cùng em, phòng khi trái gió, trở trời, nhưng tôi đều từ chối. Tôi vẫn ở túp lều cũ của mẹ, bên xóm Núi và cánh rừng xưa.

Những năm sau này, nói cho đáng, tôi cũng trải qua dăm ba cái gọi là cuộc tình, nhưng đều tan vỡ. Rốt cuộc, họ hầu hết đều ham hố, nóng vội đến không kịp cởi cả chân tôi; số ít khác có trân trọng, ân cần thì chính sự tật nguyền của tôi đã làm họ không còn là đàn ông, vào thời điểm đáng ra nên “cọp” nhất. Vì vậy, hạnh phúc của tôi so với những phụ nữ lành lặn khác là khó kiếm gấp nhiều lần.

Giờ tuy đã cứng tuổi nhưng vào những chiều vàng hoe nắng, tôi vẫn sửa soạn sạch sẽ chiếu giường, mong trong giấc mơ mình có cơ may gặp cọp. Để hy vọng biến cố nào đó, cuộc đời đưa đẩy gặp được kẻ thật lòng yêu thương mình. Yêu thương cả người lẫn thương tật của tôi.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần