Trong tháng 1/2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu NK hàng hóa ước đạt 58,5 tỷ USD, giảm 11,7% so với tháng trước, song so với cùng kỳ năm 2021, tổng kim ngạch xuất, NK tăng 6,3%; trong đó xuất khẩu (XK) tăng 1,6%, NK tăng 11,5%.
Nhiều mặt hàng chính lấy lại đà tăng trưởng
Một điểm vượt trội quan trọng là so với cùng kỳ năm trước XK của khu vực kinh tế trong nước tăng rất cao (26,8%), cao hơn của khu vực có vốn ĐTNN (2,4%) và cao hơn của tổng số cả nước (8,1%)- một hiện tượng hiếm thấy từ trước đến nay. Điều đó chứng tỏ khu vực này đã có cố gắng trong việc tận dụng ưu thế ở trong nước và những ưu đãi khi tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA).
Trong 45 mặt hàng chủ yếu, có 38 mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 11 mặt hàng có mức tăng lớn (trên 100 triệu USD), như thủy sản, hóa chất, phân bón, túi xách, ví, va li, mũ, ô, dù, gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may, sắt thép, máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng khác.
Mới qua một tháng đã có 32/45 mặt hàng đạt trên 100 triệu USD- và đó cũng là 32 mặt hàng cả năm sẽ vượt 1 tỷ USD- trong đó đã có 7 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD (gồm điện thoại; máy tính, dệt may, máy móc, phương tiện vận tải) và đó là tín hiệu cả năm sẽ vượt 12 tỷ USD. Đặc biệt có 4 mặt hàng đầu đạt 3,5 tỷ USD và đó là tín hiệu cả năm có thể vượt qua mốc 40 tỷ USD. Trong khi một số mặt hàng có giá XK tăng như hạt điều, chè, hạt tiêu, sắn, clanhke và xi măng...
Có 38/63 tỉnh, thành phố đạt trên 100 triệu USD, trong đó có 8 địa bàn đạt trên 1 tỷ USD (TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Bình Dương, Thái Nguyên, Đồng Nai, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Nội), trong đó có những địa bàn thời gian qua đại dịch Covid-19 bùng phát. Có 54/80 thị trường chủ yếu tăng so với cùng kỳ, trong đó 8 thị trường có mức tăng lớn (trên 100 triệu USD), như Mỹ, Hà Lan, Đức, Hàn Quốc, Canada, Ấn Độ, Bỉ, Indonesia- Đây là những thị trường lớn và phần lớn đã cùng Việt Nam tham gia các FTA.
Trong 80 thị trường chủ yếu, có 33 thị trường đạt trên 100 triệu USD và đó là tín hiệu khả quan để cả năm đạt trên 1 tỷ USD. Trong đó có 4 thị trường đạt trên 1 tỷ USD (Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc)- chỉ 4 thị trường này đạt gần 17,66 tỷ USD, chiếm 57,2% tổng kim ngạch XK của cả nước. Đây cũng là những thị trường cả năm sẽ vượt qua mốc 12 tỷ USD.
Tận dụng lợi thế của các FTA
Xuất siêu có tác dụng về 2 mặt. Một mặt dễ nhìn thấy là cán cân thương mại thặng dư, góp phần cải thiện cán cân thanh toán, cùng với lượng ngoại tệ vào Việt Nam từ các nguồn (như DN có vốn đầu tư nước ngoài - FDI thực hiện, kiều hối, chi của khách quốc tế đến Việt Nam, ODA, đầu tư gián tiếp,…) làm tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá… Mặt khác, xuất siêu có tác dụng kích thích sản xuất trong nước, góp phần tăng GDP. Trong 86 thị trường xuất, NK chủ yếu, Việt Nam ở vị thế xuất siêu với 59 thị trường, trong đó có 18 thị trường có mức xuất siêu lớn (trên 100 triệu USD), lớn nhất là Mỹ, tiếp đến là Hà Lan, Hongkong, Đức, Anh, Canada, Italia, Áo, Philipin, Pháp, Ba Lan, Bangladesh. Nhiều thị trường trong danh sách đều có FTA với Việt Nam.
Với nhiều điểm vượt trội trên, XK trong tháng khởi đầu là tín hiệu khả quan để cả năm có thể thực hiện được 2 mục tiêu là kim ngạch tăng 6 - 8% và xuất siêu, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh nhiều điểm vượt trội, xuất, nhập khẩu tháng khởi đầu cũng còn những hạn chế và thách thức.
Hạn chế, thách thức lớn nhất có từ cả XK và NK. Về mặt hàng XK chủ yếu, thì kim ngạch rau quả, hạt điều, sắn, than, dầu thô, dây điện và dây cáp điện, đặc biệt là điện thoại… bị giảm sâu. Trong khi đây là những mặt hàng Việt Nam có nhiều lợi thế. Tỷ trọng XK của khu vực trong nước vẫn còn ở mức thấp hơn tỷ trọng về NK (26,8% so với 33,9%). Tốc độ tăng của NK cao hơn của XK (11,3% so với 8,1%). Trong 86 thị trường NK chủ yếu có 24 thị trường tăng, tăng lớn có 8, như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Kuwait, Argentina, Braxin. Nguyên nhân có nhiều, trong đó có một số nguyên nhân đáng lưu ý. Có nguyên nhân từ hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa XK của Việt Nam còn yếu. Trong nông nghiệp lao động còn lấy công làm lãi; công nghiệp phụ trợ còn yếu, còn mang nặng tính gia công, lắp ráp, nên thực thu không cao, lại phụ thuộc vào NK. Có nguyên nhân giá NK tiếp tục tăng cao so với cùng kỳ, vừa làm tăng kim ngạch NK, vừa làm tăng NK lạm phát. So với cùng kỳ năm trước, giá NK tăng như than (160,5%), dầu thô (80,7%), phân bón (81,1%), bông (54,8%), sắt thép (53,2%), ngô (55,1%), xăng dầu (51,5%), khí đốt hóa lỏng (33,7%)… Có nguyên nhân do có một số mặt hàng nông sản chế biến chưa sâu, không có thương hiệu riêng, lại “bỏ trứng vào một giỏ”…