Phim tài liệu - Ngậm ngùi giấc mơ ra rạp
Ảm đạm
Vài năm gần đây, lượng học viên ở các lớp dạy làm phim tài liệu có xu hướng tăng. Dẫu vậy, phim tài liệu vẫn không có nhiều biến chuyển rõ rệt, thiếu những điểm sáng gây được ấn tượng với công chúng. Bộ phim "Luôn ở bên con" của đạo diễn Nguyễn Thị Kim Hải đã đoạt giải Phim tài liệu hay nhất tại Liên hoan phim quốc tế Việt Nam lần thứ nhất là một điểm sáng hiếm hoi của thể loại này trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên, sự lẻ loi của bộ phim chỉ làm cho người ta nhìn nhận và tôn trọng giá trị tự thân của nó, chứ chưa tạo được bứt phá trong thể loại.
Thời hoàng kim của phim tài liệu đã qua, nhưng nhiều người vẫn không thôi nhắc đến. Hàng loạt các bộ phim sản xuất trong những năm tháng chiến tranh đã đoạt giải thưởng cao tại các liên hoan phim uy tín trên thế giới như "Nước về Bắc Hưng Hải", "Đường về quê mẹ" của NSND Bùi Đình Hạc. Kể cả sau này, những giá trị vĩnh hằng của đề tài chiến tranh vẫn là nguồn sống dồi dào nhất cho điện ảnh Việt nói chung và phim tài liệu nói riêng. Thế hệ đạo diễn thời bấy giờ không thể so sánh với lớp đạo diễn ngày nay về công nghệ, kỹ thuật quay. Vậy tại sao đội ngũ trẻ lại không tạo nên được những sản phẩm đáng chú ý? Không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử, bởi cuộc sống hiện đại vẫn chuyển động liên tục với bao sự kiện nóng hổi. Phải chăng trước sức ép của công nghệ 3D, 4D hiện đại, điện ảnh truyền thống không còn chỗ đứng, hoặc phải thay đổi để thích nghi?
Trong hội thảo về phim tài liệu gần đây, nhiều ý kiến đề cập đến yếu tố tuyên truyền quá nặng vẫn đang cố hữu trong các tác phẩm phim như một sự lạc hậu so với thời đại, vì nội dung phim ôm đồm, áp đặt, nặng triết lý, lời bình át hình ảnh. Những vấn đề nóng như tiêu cực, lãng phí, tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống lại chưa được đề cập đến trong phim tài liệu. Đó chính là lý do khiến dòng phim này chỉ dành cho những ngày lễ.
Lối thoát
Không khó để nhận thấy, phim tài liệu Việt không có vị trí xứng đáng của thể loại. Ở các nước châu Âu, nhiều bộ phim tài liệu không chỉ đoạt giải thưởng cao, mà còn có doanh thu lớn hơn cả phim truyện nhựa như "Sự biến đổi của một nhà ga", "Dòng sông Congo"... Còn với phim Việt, được công chiếu ở rạp là cả một sự kỳ công.
Thêm vào đó, kinh phí eo hẹp cũng là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của phim tài liệu. Như NSND Bùi Đình Hạc phân tích: "Chúng ta đòi hỏi nhà nước tiền thì lấy đâu ra. Phải có mô hình để nó có thể tự nuôi nó và phát triển. Chẳng hạn, cần có sự phối hợp giữa truyền hình và điện ảnh... Tổng cục Điện ảnh Trung Quốc được nhận 3% quảng cáo từ truyền hình, và sau đó họ đã lớn mạnh gấp mười lần Đài. Ở Pháp, người ta lấy tất cả tiền thu xuất nhập khẩu phim ảnh, thuế truyền hình, chuyển hết đầu tư điện ảnh, họ có đến 50 chương trình truyền hình để chiếu hoặc giới thiệu phim. Truyền hình và điện ảnh muốn phát triển phải gắn kết với nhau".
Một điều đáng nói nữa, phim truyền hình ít nhất đã có "giờ vàng", còn phim tài liệu lại không. Phim tài liệu chủ yếu chỉ được chiếu vào những dịp đặc biệt như các sự kiện, lễ hội. Nếu không có khung giờ cố định, khán giả không có thói quen xem phim tài liệu. Vậy, có cần thiết hay không một "giờ vàng" cho phim tài liệu?