Đây là nội dung được Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh đưa ra tại Hội thảo “Quản lý tuân thủ thuế trong nền kinh tế số” nhằm tìm kiếm những giải pháp quản lý tuân thủ thuế hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước trong thời đại công nghệ số.
Quản lý thuế theo rủi ro trước yêu cầu chuyển đổi số
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh cho biết, tính đến thời điểm hiện tại, cả nước hiện có gần 1 triệu doanh nghiệp, hơn 3 triệu hộ kinh doanh (trong đó có khoảng 1,9 triệu hộ kinh doanh thuộc diện phải nộp thuế) và 27 triệu cá nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân (trong đó có khoảng 7 triệu cá nhân có thu nhập thuộc diện phải nộp thuế thu nhập cá nhân). Với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, cùng với chủ trương đẩy mạnh hội nhập, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong thời gian tới sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp, tổ chức cá nhân kinh doanh tại Việt Nam.
Với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, cùng với chủ trương đẩy mạnh hội nhập, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong thời gian tới sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp, tổ chức cá nhân kinh doanh tại Việt Nam trong khi số lượng cán bộ thuế hạn chế.
Vì vậy, việc áp dụng quản lý thuế theo rủi ro sẽ giúp cơ quan thuế phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của mình để tập trung quản lý nhóm người nộp thuế (NNT) có mức độ tuân thủ thấp nhất, khả năng gian lận về thuế cao nhất; tiết kiệm thời gian, hiểu được hành vi tuân thủ của NNT, từ đó có chiến lược xử lý rủi ro phù hợp, giám sát chặt chẽ và xử lý kịp thời các hành vi không tuân thủ, nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT. Bên cạnh đó, việc cơ quan thuế áp dụng phân tích rủi ro, quản lý tuân thủ để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ tốt các quy định của pháp luật.
Trong những năm qua, ngành Thuế đã thực hiện quản lý dữ liệu theo cơ chế quản lý tập trung. Theo đó, dữ liệu về thuế được chuyển từ các địa phương về tập trung tại cơ quan Tổng cục Thuế. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu này được đồng bộ thường xuyên và liên tục đã tạo cơ sở thuận lợi cho việc phân tích rủi ro.
Ngoài ra, ngành Thuế đã tích cực phối hợp với các cơ quan tổ chức bên ngoài như Tổng cục Hải quan, Kho Bạc Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán, ngân hàng thương mại và các cơ quan khác để thực hiện thu thập, trao đổi thông tin về NNT phục vụ phân tích rủi ro, đánh giá lịch sử tuân thủ của NNT.
Ngành Thuế cũng đã xây dựng Bộ tiêu chí, chỉ số tiêu chí và Quy trình quản lý rủi ro áp dụng đối với nhóm NNT là tổ chức, doanh nghiệp và nhóm là cá nhân, hộ kinh doanh.
Trước yêu cầu chuyển đổi số mạnh mẽ ngành Thuế đã bắt tay vào nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới dựa trên phân tích dữ liệu lớn, áp dụng trí tuệ nhân tạo vào phân tích rủi ro, quản lý tuân thủ pháp luật thuế. Trong đó, xây dựng cơ sở dữ liệu đối soát dữ liệu lớn với hóa đơn điện tử (HĐĐT), xây dựng chức năng cảnh báo ngưỡng chặn xuất hoá đơn và bước đầu nghiên cứu, áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào phân tích dữ liệu HĐĐT để phát hiện rủi ro giá bất thường. Đồng thời, phát hiện hành vi gian lận hoàn thuế GTGT, phân tích chuỗi mua bán hóa đơn theo từng mặt hàng rủi ro hoặc theo chuỗi quan hệ mua bán của các doanh nghiệp trong nền kinh tế giúp tìm các chuỗi nghi ngờ (mua bán lòng vòng, chỉ mua không bán, chỉ bán không mua, xuất khống hóa đơn...).
Giải quyết áp lực trong công tác quản lý tuân thủ thuế
Đại diện Tổng cục Thuế cho hay, qua quá trình nỗ lực, ngành Thuế đã thu được nhiều kết quả ấn tượng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT, tiết kiệm đáng kể chi phí, nguồn lực con người; xác định đúng đối tượng cần kiểm tra, thanh tra thuế, ngăn ngừa các biểu hiện tiêu cực trong việc lựa chọn đối tượng, đảm bảo tính khách quan, sử dụng hiệu quả các nguồn lực phục vụ công tác kiểm tra, thanh tra tại trụ sở NNT; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để NNT tuân thủ tốt các quy định pháp luật; hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Dựa trên kết quả áp dụng các bộ tiêu chí đánh giá rủi ro, kết quả thanh tra, kiểm tra NNT tại cơ quan thuế các cấp đều tăng qua các năm.
Bên cạnh đó, quá trình phân loại hồ sơ hoàn thuế GTGT hoàn toàn tự động, rút ngắn thời gian phân loại hồ sơ hoàn, đảm bảo khách quan, công bằng trong phân loại hồ sơ hoàn thuế. Đồng thời, theo dõi, quản lý chặt chẽ tình hình quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ của NNT, hạn chế tình trạng mua bán hóa đơn bất hợp pháp thông qua việc xác định các dữ liệu rủi ro, xây dựng các công cụ, ứng dụng quản lý việc sử dụng HĐĐT của NNT.
Song song với kết quả đạt được, quá trình triển khai thực hiện áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế hiện nay còn gặp nhiều bất cập, hạn chế. Với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, cùng với chủ trương đẩy mạnh hội nhập, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong thời gian tới sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp, tổ chức cá nhân kinh doanh tại Việt Nam với các hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phức tạp. Đây là một áp lực cho công tác quản lý thuế nói chung, trong đó có yêu cầu về quản lý thuế theo phân tích rủi ro.
Nhằm đảm bảo việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế được thực hiện theo lộ trình phù hợp, cơ quan thuế định hướng hoàn thiện môi trường hệ thống trung tâm phân tích dữ liệu gồm: tổ chức hệ thống phân tích dữ liệu theo thời gian thực, bố trí các máy chủ đảm bảo lưu trữ các dữ liệu cần cho phân tích rủi ro; triển khai các phần mềm hệ thống cho cơ sở dữ liệu lớn, phần mềm hệ thống thao tác cơ sở dữ liệu, phần mềm hệ thống hỗ trợ chạy phân tích dữ liệu.
Bên cạnh đó, ngành Thuế cũng cần triển khai xây dựng “Hệ thống ứng dụng cơ sở dữ liệu và phân tích rủi ro tổng thể” trên cơ sở nghiên cứu áp dụng phương pháp phân tích dữ liệu số lớn, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, học máy vào phân tích rủi ro, quản lý tuân thủ NNT.