Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quốc hội tiếp tục thảo luận về kinh tế - xã hội: Nhà nước phải làm “trọng tài” xử lý các lợi ích

Công Thọ-Như Hương
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Sáng nay (5/11) Quốc hội tiếp tục thảo luận ở hội trường về: kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, đầu tư công, tài chính quốc gia, cơ cấu lại nền kinh tế, chương trình mục tiêu quốc gia, chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác để thực hiện Dự án hồ chứa nước sông Than, Bản Mồng.

Cần ban hành chính sách đặc thù, đủ mạnh, hình thành không gian kinh tế vùng
Mở đầu phiên thảo luận sáng nay, đại biểu Vương Ngọc Hà (Đoàn Hà Giang) đề nghị Chính phủ ban hành chính sách đặc thù và đủ mạnh để thu hút nhà đầu tư tập trung vào các ngành, lĩnh vực mà vùng có thế mạnh như lâm nghiệp, nông nghiệp với những sản phẩm đặc trưng và liên kết theo chuỗi chế biến sâu, tạo thành những vùng hàng hóa tập trung khu vực sản xuất giống, vùng nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến, nhất là liên kết trong sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo không bị giới hạn bởi rào cản địa giới hành chính từng tỉnh, hình thành không gian kinh tế vùng.
 Đại biểu Lê Thanh Vân (Đoàn Cà Mau) phát biểu tại hội trường
Đại biểu Vương Ngọc Hà cũng nêu thực tế, trong năm qua đất nước chúng ta phải đối mặt với dịch bệnh Covid-19 và thiên tai, nhất là vừa qua bão, lũ liên kiếp thiệt hại nặng nề ở khu vực miền Trung, miền núi. Trong hoàn cảnh đó toàn Đảng, toàn dân toàn quân đã chung sức đồng lòng và nhất là cách điều hành hiệu quả của Chính phủ và chính quyền các cấp đã đảm bảo ổn định về kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Hình ảnh người người nhà nhà trong bản làng với nhau, góp nhau gói, nấu bánh chưng. Những hội viên phụ nữ cùng nhau nấu cơm gửi đến đồng bào, chiến sĩ vùng bị thiên tai và từng đoàn xe chở nhu yếu phẩm từ Bắc Nam đều hướng về miền Trung thân yêu, đã cho thấy truyền thống đoàn kết tình nghĩa đồng bào của người dân đất Việt.
Nhưng chúng ta cũng thấy được những điểm chưa phù hợp, cần phải điều chỉnh liên thông thông tin, việc điều phối hoạt động hỗ trợ. Qua việc chống Covid - 19 trên tuyến biên giới, nhiều đồn, trạm biên phòng còn xa vùng biên, đội tuần tra biên giới chưa được đầu tư đồng bộ, cách thức quản lý biên giới còn thô sơ rất khó quản lý nhất là xuất nhập cảnh, trong khi phía tiếp giáp chúng ta thì được đầu tư rất bài bản.
Bà Vương Ngọc Hà cho biết, tỉnh Hà Giang đã thí điểm đầu tư, các chốt cứng ngay biên giới cho các lực lượng quản lý biên giới và thấy rằng rất hiệu quả. Tuy nhiên nguồn lực ở tỉnh có hạn và chưa đồng bộ. Kỳ họp này chúng ta sẽ thông qua Luật Biên phòng Việt Nam, trong đó có quy định chính sách ưu tiên nguồn đầu tư, hiện đại hóa các công trình biên giới. Vì vậy, ĐB tỉnh Hà Giang kiến nghị cần sớm đầu tư cơ sở hạ tầng cho hoạt động các đồn biên phòng đồng bộ như camera quan sát và các trang thiết bị hiện đại và các hệ thống chốt cứng ở vùng biên; đặc biệt ưu tiên đầu tư đường tuần tra biên giới để vừa đảm bảo kiểm soát chủ quyền, an ninh biên giới, vừa thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
Cơ cấu lại nền kinh tế phải quy hoạch, phát triển nguồn nhân lực
Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ (Đoàn Hà Tĩnh) nêu quan điểm về hiện đại hóa công tác quy hoạch, cơ cấu kinh tế. Giai đoạn 2016 – 2021, các ngành công ngiệp, nông nghiệp, dịch vụ đã dịch chuyển theo hướng tích cực; khai thác, ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh, tăng năng suất.
 Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ 9Đoàn tỉnh Hà Tĩnh) phát biểu tại phiên thảo luận. 
Tuy nhiên, theo bà Bùi Thị Quỳnh Thơ, cơ cấu lại nền kinh tế chưa được đánh giá rõ. Công tác cơ cấu vùng kinh tế chưa được triển khai một cách rõ ràng hay xác định rõ bước đi, trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế cho phù hợp với trình độ phát triển của địa phương, của từng tỉnh; chưa tạo được sự đột phá, liên kết phát triển vùng còn lỏng lẻo; chưa có sự liên kết hiệu quả; tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa phương, khoảng cách phát triển giữa các vùng miền còn lớn. Báo cáo quyết toán thu chi năm 2018 của Chính phủ đã nói lên điều đó.
Nghiên cứu ở nhiều địa phương, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ nhận xét, công tác quy hoạch vùng, ngành, lĩnh vực vẫn chưa gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chủ yếu các nhiệm vụ được thực hiện lồng ghép trong các báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm, hoặc kế hoạch giai đoạn 5 năm mà chưa có kế hoạch, lộ trình thực hiện các lĩnh vực hoặc các ngành ưu tiên phát triển… Do đó, đại biểu đề nghị, giai đoạn 2021 – 2026, Quốc hội cần có sự giám sát chặt chẽ hơn về lộ trình cơ cấu lại ngành ở các địa phương. Các địa phương cần có kế hoạch, quy hoạch cơ cấu lại ngành, lĩnh vực, vùng kinh tế một cách có hệ thống theo đúng mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Đặc biệt, bà Bùi Thị Quỳnh Thơ cho rằng, chúng ta đã bỏ sót một vấn đề rất quan trọng, là nền tảng cho sự phát triển là quy hoạch nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Báo cáo Chính phủ đề ra định hướng thời gian tới cần hình thành hệ sinh thái, đổi mới sáng tạo theo chuẩn mực quốc tế để triển khai và áp dụng công nghệ 4.0, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, nền kinh tế số… “Điều đó có nghĩa là toàn bộ nền kinh tế đang rất cần một lượng lớn những người được đào tạo trong nhiều lĩnh vực có chất lượng” - Nhấn mạnh điều này, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ cho rằng, giải pháp cho nhu cầu này cần được quan tâm hơn.
Vừa qua, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đã được đề ra trong hầu hết các báo cáo của Chính phủ cũng như các cấp chính quyền hàng năm. Tuy nhiên, chính sách, kế hoạch cân đối chuẩn bị nguồn nhân lực không được thực hiện ở các cấp mà chủ yếu phụ thuộc ở nhân lực tốt nghiệp ở các ngành nộp đơn thi xét tuyển, đến khi không đủ số lượng và chất lượng theo yêu cầu thì các báo cáo lại tiếp tục đánh giá tồn tại là do nguồn nhân lực chưa đủ và chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Trong khi đó, các sinh viên đăng ký ngành học chủ yếu là tự phát, dựa trên sở thích, tiềm lực kinh tế gia đình hay vào dự báo thị trường hiện tại. Điều này khiến cho sinh viên đăng ký vào các ngành học trong từng thời kỳ luôn diễn ra theo đồ thị hình sin, gây ra sự thừa thiếu cục bộ về nguồn nhân lực cho toàn bộ nền kinh tế.
“Nhân lực là yếu tố nền tảng cho sự phát triển của quốc gia trong công tác quy hoạch, cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2026. Để cơ cấu lại nền kinh tế đạt được mục tiêu đề ra, cần thiết phải quan tâm đến vấn đề quy hoạch nguồn nhân lực, thực hiện theo phương châm Chính phủ hành động, địa phương bên cạnh thực hiện phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế cần chủ động tổ chức các giải pháp phát triển nguồn nhân lực”, bà Bùi Thị Quỳnh Thơ nói.
Cần chính sách khoa học công nghệ phù hợp cho miền núi
Trước tình hình thiên tai bão lũ diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn do biến đổi khí hậu, đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Lạng Sơn) đề nghị, cần nâng cấp các quy chuẩn kỹ thuật, văn bản pháp luật, quy hoạch phù hợp liên quan đến phòng chống thiên tai; hỗ trợ cải tạo nhà ở của người dân vùng thoát lũ, xả lũ; sắp xếp bố trí dân cư các điểm có nguy cơ cao, bổ sung nguồn lực trồng rừng và bảo vệ rừng…
Từ thực tiễn giám sát của Hội đồng Dân tộc, đại biểu Nguyễn Lâm Thành cho biết, phát triển sản xuất ở miền núi đã đạt ngưỡng. Muốn chuyển đổi về chất ở khu vực này, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ với nhiều điểm sáng ở Sơn La, Bắc Giang, Bắc Kạn. Tuy vậy, ĐB Thành cũng nêu thực tế, hiện nay, chúng ta vẫn chưa tạo được quy trình khép kín từ nghiên cứu đến triển khai, kết nối thị trường tạo nên chuỗi sản xuất, chuỗi quản lý... Do đó, đại biểu đề nghị cần sớm sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, có chính sách khoa học công nghệ phù hợp cho vùng miền núi...
Chúng ta có quyền ước mơ khát vọng phồn vinh

Đại biểu Hoàng Văn Cường (Đoàn Hà Nội) đồng tình với Báo cáo của Chính phủ đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 và kế hoạch của giai đoạn 2021 - 2025. Để đánh giá chính xác những thành tựu đạt được về kinh tế - xã hội 5 năm qua, ông cho rằng, nên chia thành hai thời điểm: thời điểm trước khi bùng phát đại dịch Covid-19 và đánh giá riêng của năm Covid-19.
Cụ thể, trước Covid-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế cả giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8%, tức đạt được ở mức cao của giai đoạn 5 năm, trong khi chỉ số CPI đã giảm từ 18,6% vào đầu năm 2011 xuống còn 4%; cán cân thương mại trong nhiều năm liên tục dương; tỷ lệ bội chi ngân sách cũng đã giảm sâu từ 5,4% xuống 3,5%, kéo được nợ công từ mức sát kịch trần xuống 55% vào năm 2019.
Riêng năm 2020 là năm Covid-19, với quan điểm chỉ đạo là chúng ta chấp nhận hy sinh lợi ích kinh tế để đảm bảo an toàn tính mạng của người dân. Kết quả đạt được là chúng ta đã làm cho thế giới phải ngưỡng mộ về thành công trong phòng, chống dịch cũng như là nước dẫn đầu trong khu vực về tăng trưởng kinh tế và cũng là một ngôi sao sáng của thế giới về mức tăng trưởng kinh tế dương.
Trong bối cảnh gặp muôn vàn khó khăn từ nhân tai như thảm họa môi trường Formosa đến thiên tai như hạn hán, sạt lở đồng bằng sông Cửu Long, bão lụt , lở đất hoành hành ở tỉnh miền Trung đến dịch bệnh như dịch tả lợn Châu Phi, đại dịch Covid-19; bối cảnh bất lợi của kinh tế thế giới do chiến tranh thương mại, xu hướng bảo hộ thương mại, sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng toàn cầu… nhưng chúng ta vẫn đạt được thành tựu nêu trên. Điều đó cho phép chúng ta có quyền ước mơ khát vọng phồn vinh, trở thành nước công nghiệp hiện đại, nước phát triển...
Vấn đề là làm thế nào để khát vọng trên trở thành hiện thực? Đặt câu hỏi này, đại biểu Hoàng Văn Cường phân tích, có nhiều tiêu chí để xếp các nước vào nhóm đầu tư phát triển nhưng có hai tiêu chí rất cơ bản đó là chỉ số HDI phải đạt 0,8% và mức thu nhập GDP bình quân đầu người phải đạt trên 40.000 USD. HDI là chỉ tiêu tổng hợp của ba chỉ số về giáo dục, tổ chức và thu nhập. Hiện nay, chỉ số HDI của Việt Nam đạt được là 0,693%, được xếp vào nhóm các nước phát triển khá, có nghĩa là chúng ta chỉ thiếu 0,07% thì chúng ta đạt được tiêu chuẩn của nhóm có HDI cao. Qua đây, chúng ta cũng thấy rằng, mặc dù chưa bằng lòng với giáo dục, khi cả hội trường nóng lên về việc một số sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 sai một số ngôn từ, ngữ điệu… nhưng thế giới thì đang xếp giáo dục của chúng ta vào hàng khá cao. Chính vì vậy, chỉ số HDI của Việt Nam được đánh giá cao, trong khi thu nhập quốc dân của chúng ta vẫn thấp.
“Như vậy, mấu chốt để Việt Nam trở thành nước phát triển cao chủ yếu là làm thế nào để tăng trưởng kinh tế nhằm đạt được mục tiêu thu nhập GDP bình quân đầu người là 40.000 USD vào năm 2045”, ông Hoàng Văn Cường nói.
Về lý thuyết, theo ông, nếu chúng ta đặt mục tiêu tăng trưởng từ 6,5 - 7%/năm thì cứ sau 10 năm, chúng ta có mức tăng gấp đôi. Như vậy, đến năm 2030, tính theo GDP đã được tính lại thì GDP bình quân đầu người có thể đạt được 7.000 - 8.000 USD; đến năm 2045 chúng ta có thể được từ 20.000 - 25.000 USD. Như vậy, khoảng cách của nước ta với các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia… còn giãn cách.
Tập trung phát triển các tập đoàn lớn, đóng vai trò trụ cột trong chuỗi giá trị
Theo kinh nghiệm của các nước đã cất cánh trở thành “con rồng châu Á” thì phải có một giai đoạn tăng trưởng rất cao, có thể đạt 10%/năm dựa vào đầu tư đổi mới, sáng tạo, chuyển giao công nghệ và trụ cột là phát triển các tập đoàn lớn, đặt trụ cột trong chuỗi giá trị cung ứng. Vì vậy, đại biểu Hoàng Văn Cường đề nghị, trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2021 - 2030 và kế hoạch 2021 - 2025, cần phải chú ý một số điểm:
Thứ nhất, phải tập trung nguồn lực đầu tư và hỗ trợ để phát triển những tập đoàn kinh tế mạnh làm trụ cột cho các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Đại biểu Hoàng Văn Cường đồng tình với đề xuất của TP Hà Nội xây dựng tuyến metro số 5 Văn Cao - Hòa Lạc với mục tiêu vừa thúc đẩy phát triển đô thị vệ tinh Hòa Lạc; đồng thời, đây chính là cơ sở để thúc đẩy ngành công nghiệp đường sắt. Chúng ta có thể kêu gọi các tập đoàn nước ngoài hoặc thậm chí có thể mua lại cả một dây chuyền công nghệ của nước ngoài để chúng ta phát triển, trở thành “người chủ” trong chuỗi giá trị phát triển ngành công nghiệp đường sắt trong nước. ĐB Cường cũng cho rằng, các tập đoàn kinh tế tư nhân nếu được hỗ trợ của Chính phủ thì có thể thực hiện được mục tiêu này nhanh hơn, hiệu quả hơn nhiều so với các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước.
 Đại biểu Hoàng Văn Cường (Đoàn TP Hà Nội) phát biểu tại phiên thảo luận. 
Thứ hai, cần ưu tiên vào nguồn nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chúng ta mới có khả năng đặt chân vào khâu có giá trị cao trong chuỗi giá trị để tăng năng suất lao động, tạo ra được mức tăng trưởng đột phá. Ông Hoàng Văn Cường bày tỏ rất đồng tình với đại biểu Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) đã phân tích các trường đại học chính là cái nôi của nguồn nhân lực chất lượng cao để đổi mới sáng tạo. Tuy vậy, mức đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay đang rất thấp, chỉ chiếm 0,33% GDP, trong khi các nước OECD có số lượng sinh viên ít hơn và quy mô GDP lớn hơn nên mức đầu tư cho giáo dục đại học chiếm đến 1,1% GDP. Chính vì vậy, mức chi cho giáo dục của một sinh viên trường đại học Top đầu Việt Nam hiện nay cũng chỉ chiếm bằng 1/11 - 1/13 của sinh viên các nước phát triển. Như vậy, những sản phẩm đào tạo trong nước của các trường đại học Top đầu vẫn được các nhà tuyển dụng đánh giá không có sự khác biệt rõ ràng về năng lực chuyên môn so với người tốt nghiệp ở nước ngoài, ngoại trừ Ngân hàng Thế giới đánh giá rất cao về đầu tư cho giáo dục đại học của Việt Nam, đang được coi là đủ khâu đầu tư có hiệu quả cao nhất.
“Vì vậy, cần phải tập trung đầu tư cho các cơ sở giáo dục, trường đại học Top đầu trở thành các trường đẳng cấp quốc tế thì sẽ nhanh và hiệu quả hơn nhiều lần so với việc chúng ta đang dành tiền đầu tư cho các trường mới để các trường này trở thành trường đẳng cấp quốc tế”, đại biểu Hoàng Văn Cường nói.
Thứ ba, phải huy động nguồn vốn lớn cho đầu tư phát triển. Kinh nghiệm các nước phát triển trải qua giai đoạn thành công cho thấy, vấn đề không phải là Chính phủ tìm cách để hạ thấp tỷ lệ nợ công mà vấn đề cốt yếu là làm thế nào để quản lý nợ công có hiệu quả? Theo ông Hoàng Văn Cường, các nhà quản trị giỏi không phải lấy người chỉ biết tiêu tiền của mình mà quan trọng là phải biết dùng tiền người khác để sinh sôi nảy nở ngay trong tay mình. Chúng ta đang chuyển sang giai đoạn là thu hút FDI có chọn lọc và tỷ lệ nợ công của Việt Nam đang giảm xuống mức khá thấp. Do vậy, phải nghĩ đến chiến lược huy động nguồn tiền bên ngoài vào để các doanh nghiệp, các tập đoàn trong nước vay lại nhằm tự đầu tư kinh doanh thì sẽ hiệu quả hơn nhiều lần so với việc chúng ta dựa vào các nguồn vốn đầu tư FDI từ bên ngoài để lại tạo ra sự cạnh tranh với chính sự phát triển của các doanh nghiệp, tập đoàn trong nước.
Đại biểu Hoàng Văn Cường mong muốn, tất cả các quan điểm trên không phải chỉ nằm trong kế hoạch của năm 2021-2025 mà trở thành đường lối hành động cho chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2021 - 2030 trong Nghị quyết của Đảng cũng như chiến lược phát triển của Chính phủ trong thời gian tới.
Quyết liệt thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm thuế, chuyển giá
Năm 2020 chúng ta vừa chống dịch thành công, vừa tăng trưởng GDP cao nhất trong khu vực nên được cả thế giới kính nể và khâm phục. Mặc dù GDP chỉ đạt 45% kế hoạch, nhưng thu ngân sách nhà nước vẫn đạt gần 90% dự toán năm; an sinh xã hội ổn định; niềm tin của toàn dân đối với sự lãnh đạo của Đảng được khẳng định. “Đó là những kỳ tích trong lịch sử dân tộc ta”, đại biểu Trần Quang Chiểu (Đoàn Nam Định) nêu nhận định. Ông Trần Quang Chiểu cũng bày tỏ nhất trí cao với các chỉ tiêu KT – XH, dự toán ngân sách năm 2021, kế hoạch tài chính 5 năm 2021 – 2026 do Chính phủ trình.
Ông Trần Quang Chiểu cũng lưu ý, nhiệm kỳ 2016 – 2020, ngành tài chính đã huy động được 23,5% GDP từ thuế, phí và ngân sách nhà nước, vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng lần thứ XII và Quốc hội đề ra là không dưới 23%. Song quy mô GDP mới chỉ được 15 – 16%. Trong khi đó, nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước trong 5 năm tới, Chính phủ phấn đấu huy động từ thuế, phí và ngân sách nhà nước từ 20 - 21% GDP mới, mà theo cách tính GDP hiện hành phải đạt từ 28% - 30%.
 Đại biểu Trần Quang Chiểu (Đoàn tỉnh Nam Định) phát biểu tại phiên thảo luận. 
Do vậy để hoàn thành nhiệm vụ khó khăn này, ông Trần Quang Chiểu cho rằng, Quốc hội, Chính phủ cần quyết tâm rất cao, tập trung vào một số giải pháp. Một là, về chính sách, cần sớm sửa đổi các chính sách về thu nói chung, các luật thuế nói riêng. Mở rộng cơ sở thuế, bảo đảm bao quát hết nội dung của ngân sách nhà nước, có cơ chế mạnh hơn nữa với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Hai là trong tổ chức chỉ đạo thực hiện, cần quyết liệt hơn trong thanh tra, kiểm tra, xử lý, chống chuyển giá, hủy giá, trốn thuế, chây ì thuế, nợ thuế, đọng thuế… Như vậy, “chúng ta có hy vọng hoàn thành chỉ tiêu huy động từ 20 – 21% từ thuế, phí và ngân sách nhà nước. Nếu không hoàn thành chỉ tiêu này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các chỉ tiêu tài chính vĩ mô khác, bội chi ngân sách, nợ công, nợ Chính phủ, vay nợ, nghĩa vụ trả nợ hàng năm trên tổng thu ngân sách nhà nước. Mà các chỉ tiêu tài chính vĩ mô này lại liên quan trực tiếp đến an ninh, an toàn tài chính quốc gia”, đại biểu Trần Quang Chiểu nói.
Liên quan đến hồ chứa nước bản Mồng, đại biểu Nguyễn Thanh Hồng (Đoàn Bình Dương) cho biết, đây là câu chuyện đáng ra Quốc hội phải làm từ lâu rồi. Vậy Quốc hội sẽ quyết định chủ trương đầu tư hay là Quốc hội căn cứ Luật Đầu tư công, Chính phủ báo cáo để Quốc hội thông qua việc chuyển đổi đất rừng? Có một nghịch lý ở đây là mỗi lần điều chỉnh dự án thì lại tăng diện tích rừng đầu nguồn phải chuyển đổi mục đích sử dụng lên. “Đây là vấn đề cần có lời giải thích. Việc thu hồi đền bù, giải tỏa tái định cư bản Mồng, cử tri điện cho tôi là hiện nay chưa triển khai mà dự án này chuẩn bị đưa vào khai thác sử dụng”, đại biểu Nguyễn Thanh Hồng cho biết.
Mặt khác, hợp phần thủy điện trên sông Hiếu hơn 200 km để cốt tám dự án thủy điện nhỏ và vừa. Bây giờ có phải do có hợp phần dự án thủy điện mà chúng ta phải tính toán lại, điều chỉnh lại diện tích rừng hay không? Đây cũng là câu chuyện phải có câu trả lời chính thức. ông Nguyễn Thanh Hồng đề nghị, Quốc hội cần xem xét lại quyết định chủ trương đối với dự án hồ chứa nước bản Mồng; giao Kiểm toán Nhà nướckiểm toán dự án này; nếu muốn khai thác, sử dụng thì phải đền bù, tái định cư cho người dân trước khi đưa vào khai thác, sử dụng.
Các dự án thủy điện phải đăng công khai đánh giá tác động về môi trường
Tiếp tục phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đã sử dụng quyền tranh luận để làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến triển khai các dự án thủy điện, việc xử lý các dự án thủy điện, điện mặt trời đã hết vòng đời dự án đã được đại biểu Lưu Bình Nhưỡng, đại biểu Dương Trung Quốc đặt ra trong phiên thảo luận chiều 4/11.
 Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh giải trình, làm rõ một số vấn đề các đại biểu Quốc hội quan tâm. 
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho biết, khi có chủ trương đầu tư một dự án thủy điện, trước hết các dự án này đều phải được bổ sung vào quy hoạch, trong đó có các tiêu chí về sử dụng đất thực hiện dự án. Địa phương quyết định việc bổ sung quy hoạch. Sau khi được thông qua, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục xin ý kiến các bộ ngành liên quan để đảm bảo phù hợp với các quy hoạch khác nhau. Các dự án thủy điện phải đăng công khai đánh giá tác động về môi trường… Đối với các dự án thủy điện hết vòng đời dự án, luật và các văn bản dưới luật đã quy định chủ đầu tư phải đánh giá lại an toàn hồ đập, có phương án tháo dỡ cụ thể. Chủ đầu tư dự án điện mặt trời có trách nhiệm xử lý các tấm pin khi đã hết thười gian sử dụng.
Tuy nhiên, sau phần giải trình thêm của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, đại biểu Nguyễn Thanh Hồng (Đoàn Bình Dương), đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh (Đoàn Khánh Hòa), đại biểu Dương Trung Quốc (Đoàn Đồng Nai), đại biểu Lê Thanh Vân (Đoàn Cà Mau)... đã tiếp tục tranh luận về vấn đề này.
Ông Nguyễn Thanh Hồng cho biết, nếu nghe phát biểu của Bộ trưởng Trần Tuấn Anh từ hôm qua đến nay thì “mọi thứ đều đúng cả, chỉ có trời mưa nhiều quá”!? “Bộ trưởng có nói là do chính quyền địa phương, do quy hoạch, khâu tổ chức thực hiện. Nhưng tôi thấy có một nhận xét thế này, ở đâu có nhiều nhà máy thủy điện thì gắn liền với đó là có lũ quét, lũ ống, sạt lở, ngập lụt. Hôm qua Bộ trưởng Chiến có nói gió núi, mưa ngàn. Các cụ ngày xưa còn nói “tức nước vỡ bờ”. Chúng ta làm nhiều đập thủy điện thì không vỡ ở thủy điện, đập thủy điện thì vỡ ở chỗ khác. Nước dâng cao thì nó phải tìm đường thoát mà thoát nước tạo ra trái quy luật tự nhiên thì sẽ gây những hậu quả. Tôi không phải là nhà khoa học. Câu trả lời về nguyên nhân lũ lụt, sạt lở thì Chính phủ và các nhà khoa học sẽ có ý kiến chính thức cuối cùng. Cá nhân tôi nhận xét như thế, nhiều đại biểu Quốc hội quanh tôi đều có chung nhận xét tôi”, đại biểu Nguyễn Thanh Hồng chỉ rõ.
Nhìn nhận ở góc độ khác, đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh cho biết, ông tán thành với nhận định của đại biểu Lưu Bình Nhưỡng, đúng là các dự án thủy điện có hai mặt. Nhưng như Bộ trưởng Trần Tuấn Anh phát biểu thì các dự án đều được làm đúng quy trình. “Chúng ta đã làm đúng như vậy thì phải ủng hộ điều đó. Về mặt tiêu cực của các dự án này, Bộ Công Thương hiện nay đang kiểm soát tương đối chặt chẽ và đặc biệt nhiệm kỳ này, kiểm soát rất chặt. Chúng ta ủng hộ hộ điều đó”,  ông Đỗ Ngọc Thịnh nói. Tuy nhiên, ông Đỗ Ngọc Thịnh cũng đề nghị, Bộ trưởng Bộ Công thương cần chỉ đạo để kiểm soát chặt chẽ và kiểm soát một cách hiệu quả hơn những tiêu cực của dự án thủy điện.
Ông Đỗ Ngọc Thịnh cũng đồng tình nhận định của đại biểu Dương Trung Quốc về các dự án thủy điện như một quả bom nổ chậm. Tuy nhiên, đây là nhận thức chủ quan về điều kiện khách quan.
Ông Đỗ Ngọc Thịnh đề nghị Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nói rõ, hiện nay có đúng là như vậy không? Nếu đúng là quả bom nổ chậm thì chúng ta phải tháo ngòi nổ đó. “Nhưng tôi nghĩ cũng không đến mức độ như quả bom nổ chậm, nếu đúng như vậy thì nguy hiểm quá. Chúng tôi đề nghị Bộ Công thương kiểm soát chặt chẽ điều đó. Tôi đồng tình với những giải pháp mà Bộ Công thương hiện nay đang triển khai để kiểm soát dự án thủy điện. Tôi nghĩ, chúng ta nên đồng tình chuyện đó không có gì mà không có hai mặt cả, chúng ta nhận thức được những tiêu cực, những hạn chế và có giải pháp hiệu quả”, đại biểu Đỗ  Ngọc Thịnh nói.
Tranh luận lại với Bộ trưởng Trần Tuấn Anh và đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh, đại biểu Dương Trung Quốc cho rằng, đối với các dự án thủy điện chúng ta cần có tầm nhìn sau 30-40 năm để có chế tài buộc doanh nghiệp phải tuân thủ đúng theo các quy định của pháp luật.
Cũng tranh luận về nội dung này, đại biểu Lê Thanh Vân (Đoàn Cà Mau) nhắc lại câu chuyện xây dựng thủy điện sông Đà, với mục tiêu ban đầu là trị thủy, sau đó mới tới phát điện. Nhờ có thủy điện sông Đà mà Hà Nội tránh được các trận lụt lịch sử, còn trước đó, như năm 1971, chúng ta phải phá đê để "cứu" Hà Nội. Tuy nhiên, mặt trái của thủy điện cũng tồn tại, như một số chủ đầu tư lạm dụng công trình để trục lợi thông qua phá rừng. Do đó, ĐB Vân đề nghị, phải đánh giá khách quan, nhiều chiều về hiệu quả và tác động của thủy điện. “Cần xử lý nghiêm, lên án các chủ thể vi phạm pháp luật do lợi ích nhóm gây ra, nhưng không vì lũ lụt mà đổ hết cho thủy điện”, ông Lê Thanh Vân nhấn mạnh.
Tái cơ cấu kinh tế phải gắn với mục tiêu cụ thể về sử dụng năng lượng hiệu quả
Nêu quan điểm về vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế thời gian qua trong mối quan hệ với việc sử dụng năng lượng và hiệu quả, đại biểu Lê Minh Chuẩn (Đoàn Quảng Ninh) nêu rõ, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ban hành năm 2010 và có hiệu lực thực hiện từ năm 2011. Từ đó đến nay, nước ta đã triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và hai kế hoạch 5 năm.
Kết quả thực hiện sau 10 năm, kinh tế - xã hội nước ta có sự phát triển mạnh, dân số tăng 1,11 lần. GDP hiện hành tăng 2,4 lần, bình quân đầu người tăng 2,13 lần, GDP theo thời giá cố định 2010 tăng 1,73 lần. Theo đó, tiêu dùng năng lượng điện năng ngày càng tăng cao. Tổng cung năng lượng sơ cấp tăng 2,2 lần, sản lượng điện sản xuất tăng 2,48 lần. Xét trên phương diện sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thông qua các chỉ tiêu cường độ năng lượng và cường độ điện năng tính theo GDP thời giá cố định 2010 cho thấy: từ 2010 – 2019, chỉ tiêu cường độ năng lượng tăng 1,27 lần; chỉ tiêu cường độ điện năng tăng 1,43 lần. Như vậy, hiệu quả sử dụng năng lượng điện năng nước ta ngày càng giảm.
 Đại biểu Lê Minh Chuẩn (Đoàn tỉnh Quảng Ninh) phát biểu tại phiên thảo luận. 
Nguyên nhân chính theo ông Lê Minh Chuẩn là, về trình độ công nghệ, kỹ thuật, thiết bị và quản lý sử dụng trong các ngành, lĩnh vực sản xuất còn bất cập, hạn chế dẫn đến mức tiêu hao nhiên liệu điện năng cao. Cùng với đó là, dân số tăng, thu nhập ngày càng tăng, mức tiêu dùng năng lượng điện năng trong sinh hoạt tăng cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm và chưa thực sự theo hướng sử dụng năng lượng hiệu quả.
Trong các nguyên nhân nêu trên, đại biểu Lê Minh Chuẩn cho rằng, nguyên nhân quan trọng mang tính chiến lược là do tái cơ cấu nền kinh tế mới chỉ định hướng chung là chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ mà chưa gắn với mục tiêu cụ thể về sử dụng năng lượng hiệu quả.
Để thực hiện mục tiêu đề ra trong Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị Về Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2045, ông Lê Minh Chuẩn đề nghị:
Một là, cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức và phân biệt rõ nội hàm, khái niệm sử dụng năng lượng tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả để có cơ chế, chính sách và giải pháp thực hiện phù hợp. Hiện nay, nội hàm của 2 khái niệm này còn hiểu chung chung, chưa tách biệt rõ ràng.
Quy định trong Luật Sử dụng năng lượng và tiết kiệm, hiệu quả năm 2010 thực chất mới chỉ đề cập đến khía cạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm với nghĩa là vẫn đảm bảo nhu cầu mục tiêu đặt ra nhưng với mức tiêu hao năng lượng thấp hơn. Theo đó, các chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cũng chỉ đề ra mục tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giảm năng lượng.
Đại biểu Lê Minh Chuẩn đề nghị Chính phủ và các bộ quy định rõ ràng 2 khái niệm sử dụng năng lượng tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả như sau: sử dụng năng lượng tiết kiệm là cùng một kết cấu đầu ra nhưng với mức tiêu hao năng lượng đầu vào ít hơn; sử dụng năng lượng hiệu quả là cùng một mức tiêu hao năng lượng đầu vào nhưng đạt được kết quả đầu ra nhiều hơn.
Tuy kết quả cuối cùng của 2 trường hợp trên đều giảm mức tiêu hao năng lượng trên cùng một đơn vị đầu ra, nhưng bản chất về việc áp dụng trong thực tiễn khác nhau. Cụ thể sử dụng năng lượng tiết kiệm áp dụng trong sản xuất những tiến bộ khoa học kỹ thuật để giảm tiêu hao nhiên liệu, điện năng và Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chủ yếu theo hướng này. Còn sử dụng năng lượng hiệu quả là áp dụng đối với đầu tư phát triển, mở rộng các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có giá trị kinh tế cao nhưng tiêu hao năng lượng ít. Theo đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng thay vì đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao nhiều năng lượng chuyển sang đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu hao ít năng lượng.
Hai là, với nhận thức nêu trên, đi đôi với sử dụng năng lượng tiết kiệm cần tăng cường sử dụng năng lượng hiệu quả trên cơ sở áp dụng các giải pháp kỹ thuật tiên tiến. Cần đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mục tiêu sử dụng năng lượng hiệu quả theo hướng: ngành, lĩnh vực sản xuất, tiêu hao nhiều năng lượng, chỉ hạn chế mức quy mô vừa đủ để đáp ứng được nhu cầu trong nước; ngành, lĩnh vực sản xuất, tiêu hao ít năng lượng nhưng đem lại giá trị kinh tế cao thì ưu tiên phát triển theo hướng này. Trên cơ sở đó, Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, cụ thể hóa mục tiêu và đề ra nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để thực hiện.
Đầu tư nguồn lực để thực hiện các mục tiêu môi trường trong thực tế
Phát biểu làm rõ một số nội dung được các đại biểu Quốc hội đặt ra tại phiên thảo luận, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết, trong những ngày qua đã lắng nghe các ý kiến tâm huyết của các đại biểu quốc hội trước thiên tai và hậu quả ở miền Trung. Bộ trưởng Trần Hồng Hà chia sẻ với những mất mát của miền Trung, những khó khăn, gian khổ của các lực lượng đang khắc phục hậu quả, tìm kiếm cứu nạn do thiên tai.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, theo các thống kê, xu hướng cực đoan của thời tiết, khí hậu trên toàn cầu đang tăng lên. Đảng, Nhà nước đã quan tâm, chỉ đạo các chương trình nghiên cứu lũ quét, lũ lụt ở miền Trung và Tây Nguyên, về sạt lở đất và cảnh báo sạt lở ở miền Trung, Tây Nguyên.
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (Đoàn TP Hồ Chí Minh) phát biểu thảo luận sáng 5/11.
Về các vụ việc xảy ra vừa qua, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho rằng phải có nghiên cứu độc lập của các cơ quan khoa học để đánh giá đầy đủ. Tuy nhiên, theo thông tin cho tới nay, nguyên nhân là do tổ hợp các dạng thiên tai như 4 cơn bão liên tiếp, lượng mưa vượt qua các chỉ số đo lịch sử, như Quảng Nam có mưa tới 500mm một ngày, có nơi từ 2.000 đến 4.000 mm. Các số liệu cho thấy các điểm sạt lở như ở trạm kiểm lâm 67, Trà Leng, Trà Vân, Phước Lộc (Phước Sơn), đoàn 337... ở độ cao từ 300-900m, nên ở đây không có vấn đề do thủy điện. Toàn bộ khu vực này nằm trong đứt gãy địa chất, do phong hóa, đất cát sét sỏi độ gắn kết rất thấp, địa hình dốc, tạo ra độ trượt, tạo ra đứt gãy...; cộng thêm lượng mưa lớn gia tăng trọng lượng trượt. Chúng ta cũng phải đánh giá cụ thể hơn về thực trạng rừng tại các khu vực này.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định, lũ lụt, thiên tai không phải lỗi do thủy điện. Cũng theo Bộ trưởng, việc điều tiết các hồ chứa trong khu vực nhịp nhàng, chặt chẽ như vừa qua đã làm giảm lũ từ 30 đến 70% cho vùng hạ du. Cùng với đó, các hồ chứa cũng có hiệu quả trong chống hạn.
Cảm ơn các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, chỉ ra những thách thức về tư duy phát triển, về phát triển bền vững, về tăng trrưởng xanh, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nêu rõ, Thủ tướng Chính phủ đã nhiều lần nhấn mạnh không đánh đổi môi trường lấy kinh tế. Lúc này dù còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng Bộ trưởng cho rằng, cần sớm thông qua dự án Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi), đầu tư nguồn lực để thực hiện các mục tiêu môi trường trong thực tế.
 Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà giải trình một số nội dung được các đại biểu đặt ra tại phiên thảo luận
Cũng liên quan đến vấn đề chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, bảo vệ rừng, theo đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy (Đoàn Bến Tre), thời gian qua vẫn còn điểm nóng về phá rừng; tình trạng tàng trữ, vận chuyển, mua bán lâm sản trái phép, chống người thi hành công vụ... vẫn diễn biến phức tạp. Số dự án kinh tế chuyển đổi diện tích rừng từ năm 2019 đã giảm nhưng có đến 90% diện tích rừng chuyển đổi là rừng tự nhiên. Mặc dù diện tích rừng trồng thay thế gấp 3 lần rừng tự nhiên chuyển đổi nhưng do chủng loại cây trồng, ví trí trồng thay thế nên chưa đáp ứng được công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Ít khu bảo tồn được kiểm kê, bổ sung. Tình trạng mua bán động vật hoang dã chưa giảm...
Vì thế, đại biểu Nguyễn Thị Lệ Thủy đề nghị Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ rừng tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học; cân nhắc kỹ các dự án chuyển đổi rừng phát triển kinh tế, ưu tiên dự án thủy lợi; đánh giá tác động trồng rừng thay thế; giải quyết tình trạng di cư tự phát, đẩy nhanh giao đất gắn với giao rừng; đầu tư ngân sách để cảnh báo thiên tai, phát triển rừng, bảo tồn sinh học, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về rừng...
Nhà nước phải làm “trọng tài” xử lý các lợi ích
Đề cập đến về vai trò của Nhà nước trong kinh tế, đại biểu Trương Trọng Nghĩa cho rằng, từ Nghị quyết Đại hội VI, VII, VIII, IX, X đến nay đều đã quy định. Trong kinh tế thị trường, vai trò làm kinh tế chủ yếu là doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước chỉ làm vai trò bà đỡ hoặc những khu vực tư nhân không thể đầu tư được.
Bản chất của tư nhân thì họ tối đa hóa lợi nhuận. Họ rất sáng tạo, rất thông minh, rất nhạy bén ở những nơi nào có thể tạo ra lợi nhuận. Đặc tính này không phải xấu, nhưng khi như vậy thì có thể xung đột với những lợi ích của các tầng lớp, các thành phần khác và nhiều khi, họ chỉ nghĩ đến lợi ích 5, 10 năm, không nghĩ đến lợi ích 20, 30 năm. Chính vì vậy, chúng ta cần có Nhà nước trong kinh tế thị trường mà chúng ta hay gọi là “bàn tay vô hình”, “bàn tay hữu hình”. “Vai trò của Nhà nước ở đây là xây dựng thể chế, đặc biệt, Nhà nước có vai trò làm trọng tài, nếu cần phải làm quan tòa để xử lý các lợi ích. Nếu chúng ta liêm khiết đầy đủ thì sẽ xử lý tất cả những xung đột lợi ích đó để hài hòa các lợi ích chung của đất nước”, ĐB Nghĩa nhấn mạnh.
Nhắc lại phát biểu của Bộ trưởng Bộ NN và PTNT Nguyễn Xuân Cường về việc trước đây trên địa bàn cả nước có 9 triệu ha rừng, bây giờ có 14 triệu ha rừng, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (Đoàn TP Hồ Chí Minh) đặt câu hỏi: mấy chục năm trước chúng ta có 9 triệu ha rừng thì có bao nhiêu rừng tự nhiên, bao nhiêu rừng trồng? Bây giờ chúng ta có 14 triệu ha rừng, thì có bao nhiêu triệu ha rừng tự nhiên, bao nhiêu phần rừng trồng? Vai trò của hai loại rừng này khác nhau.
Không phải ngẫu nhiên mà ở các quốc gia cực kỳ rộng lớn về lãnh thổ như Mỹ, Canada người ta vẫn kiên quyết bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ rừng tự nhiên. Có ĐBQH từng nêu và tài liệu cũng cho thấy vai trò, chức năng bảo vệ đất đai, bảo vệ rừng, tích lũy nước ngầm của rừng tự nhiên khác với rừng trồng. Rừng trồng cứ 3 hoặc 5 năm lại cho phép khai thác, lại chặt đi, lại trồng mới nên sẽ khác ngay. “Chúng ta không thể nói chung chung để so sánh đơn giản thế được”, ông Trương Trọng Nghĩa nhấn mạnh.
Nói về vấn đề thủy điện, đại biểu Trương Trọng Nghĩa cũng chỉ rõ, chúng ta không thể đổ thừa cho thủy điện nhưng một dòng sông chịu được bao nhiêu thủy điện? Nếu dòng sông này chịu được 3 thủy điện mà cho làm 8 thủy điện thì sẽ khác. Khi xét duyệt 1, 2 , hay 3 thủy điện đầu tiên sẽ khác nhưng xét duyệt đến thủy điện thứ 4, thứ 5, thứ 6 thì tác động của nó đã khác. "Nếu chúng ta đơn giản hóa vấn đề này thì không thấy được trách nhiệm nhà nước ở đâu." - Ông Trương Trọng Nghĩa cho biết.
Những bài học quý giá trong quản lý điều hành đất nước
Đại biểu Lê Thanh Vân (Đoàn Cà Mau) cho rằng có 3 bài học có giá trị mà Chính phủ và chúng ta nên tổng kết. Thứ nhất là bài học về đồng thuận của nhân dân, thể hiện rõ nhất khi đại dịch Covid-19 bùng nổ và chúng ta đã phản ứng kịp thời, nhân dân cả nước rất ủng hộ và tuân thủ. Ngay cả khi chuyển trạng thái sang cách ly xã hội, sau này điều chỉnh thành giãn cách xã hội thì người dân cũng đồng thuận và chấp hành. Thứ hai là tinh thần dân tộc qua đợt bão lũ vừa qua khi hàng đoàn xe kìn kịt từ Bắc chí Nam về ủng hộ miền Trung. Đó là tinh thần dân tộc vô cùng quý giá mà khi có thiên tai, địch họa chúng ta mới phát huy được. Thứ ba là sự phản ứng kịp thời của hệ thống chính trị. Khi Covid-19 vừa mới bùng nổ không lâu thì Tổng Bí thư, Chủ tịch Nước đã ra lời kêu gọi; Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tính đến các gói hỗ trợ và đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16 dù có bàn tán ra vào ban đầu nhưng gần như không có phản ứng từ phía nhân dân. Đặc biệt là khi lũ lụt có cứu trợ của người dân, của cộng đồng, dư luận lại dấy lên câu chuyện pháp lý thì 2 ngày sau Thủ tướng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng sửa Nghị định 64. Đó là những bài học theo ĐB Lê Thanh Vân là “rất quý giá” và cần phải đánh giá sâu trong quản lý điều hành đất nước.
Về nhiệm vụ, giải pháp của năm 2021 và giai đoạn 2021 – 2025, ông Lê Thanh Vân nêu 5 vấn đề Chính phủ cần lưu ý:
Thứ nhất, cần phải đổi mới phương thức tổ chức hoạt động của Chính phủ, Chính phủ cần tổ chức lại với một bộ máy tinh gọn cho phù hợp với biến đổi của thời cuộc. Phải điều chỉnh chức năng, hướng vào nhiệm vụ trọng tâm, đó là ban hành, kiểm soát thể chế thay vì can thiệp trực tiếp vào các quan hệ xã hội. Chính phủ phải phân bổ hợp lý, hài hòa các nguồn lực của xã hội, đặc biệt là không có sự chồng lấn giữa chi thường xuyên, đầu tư công và xã hội hóa trong cùng một nhiệm vụ. Cần phải phân biệt rõ đâu là nhiệm vụ của Trung ương, của tỉnh, huyện, xã trong đầu tư công để kiểm soát tốt quyền lực. Ngoài ra, Chính phủ phải triển khai thật mạnh mẽ, nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới trong quản lý.
Thứ hai, Chính phủ đang giao cho Bộ Nội vụ chuẩn bị xây dựng một chiến lược về thu hút, trọng dụng nhân tài. Đánh giá cao điều này, ĐB Vân cho biết, ông vừa góp ý cho Bộ Nội vụ và đề nghị tập trung nguồn lực nhân tài cho 5 lĩnh vực ưu tiên: cho nhân tài, cho lãnh đạo quản lý quốc gia; cho làm giàu trên mọi phương diện; thu hút nhân tài cho khoa học công nghệ; cho quản trị giáo dục và cho văn hóa nghệ thuật.
Thứ ba, đại biểu Lê Thanh Vân đề nghị Chính phủ khẩn trương ban hành một bộ tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là người đứng đầu. Trong đó có những tiêu chí rất đáng chú ý, đó là khả năng khởi xướng chính sách, khả năng đề ra chủ trương đặc biệt và giải pháp, khả năng trọng dụng nhân tài, lôi cuốn bộ máy, thuyết phục được quần chúng đi theo và đặc biệt là sản phẩm đầu ra đánh giá định kỳ hàng năm phải có kết quả cụ thể. Cái này doanh nghiệp đã có rồi Chính phủ nên nên tham khảo và áp dụng cho bộ máy nhà nước.
Thứ tư, Chính phủ cần nghiên cứu để ban hành một loạt chính sách ưu đãi mở đường cho một số doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao để có những sản phẩm khoa học công nghệ kích nổ cho toàn bộ hệ thống doanh nghiệp. Chỉ có công nghệ mới thay đổi diện mạo của đất nước.
Cuối cùng, Chính phủ cần rà soát lại các quan hệ xã hội đang bị điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức để chuyển hóa thành các quan hệ xã hội điều chỉnh bằng pháp luật nhằm ngăn chặn sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức xã hội, về văn hóa xã hội, văn hóa truyền thống. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy rằng, văn hóa, đạo đức xã hội cũng chính là một nguồn lực tác động đến tăng trưởng và đóng vai trò vô cùng quan trọng. Việc ứng xử của con người trong kinh doanh, trong sản xuất, trong giáo dục và mọi phương diện khác chính là những nguồn lực vô hình, tạo nên sức mạnh dân tộc và hình ảnh của người Việt Nam.
Những đề xuất này, theo ông Lê Thanh Vân, phải cụ thể hóa bằng các nghị quyết, đạo luật và đặc biệt là các giải pháp của Chính phủ. Đại biểu Lê Thanh Vân cũng cam kết, sẵn sàng tham gia để góp ý với các cơ quan Chính phủ cụ thể hóa thành đề xuất này quy định cụ thể.