Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Sắc xanh từ kinh tế rừng Cà Mau

Hoàng Nam
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Là tỉnh cực Nam được thiên nhiên ban tặng “biển bạc – rừng vàng” ngoài thế mạnh về kinh tế biển, những năm gần đây tỉnh Cà Mau đã phát triển mạnh kinh tế rừng, đưa cuộc sống người dân nơi đây ngày càng sung túc.

Mô hình tôm-rừng ở Ngọc Hiển Cà Mau
Mô hình tôm-rừng ở Ngọc Hiển Cà Mau

Những năm 1990 trở về trước, kinh tế lâm nghiệp ở Cà Mau chỉ loay hoay ở việc khai thác gỗ tràm làm nguyên liệu xây dựng (vùng hệ sinh thái ngọt), hoặc khai thác gỗ đước (vùng hệ sinh thái mặn) làm nguyên liệu than. Nhưng hôm nay, kiểu khai thác như trên đã không còn nữa, thay vào đó là phát triển kinh tế rừng mang tính bền vững gắn với giữ lá phổi xanh của thiên nhiên ban tặng.

Chuyển dần phương thức canh tác hiện đại và thay đổi giống trồng, kinh tế lâm nghiệp tại vùng rừng U Minh Hạ từng bước phát triển. Thông qua các hình thức chuyển đổi sản xuất, từ giống cây trồng đến hình thức canh tác, chế biến lâm sản, nuôi trồng dưới tán rừng, tận dụng hệ sinh thái rừng để phát triển du lịch... kinh tế lâm nghiệp tại Cà Mau những năm gần đây có nhiều chuyển biến tích cực. Qua đó đã mang lại nguồn lợi đáng kể, nâng dần mức sống của người dân vùng rừng, trồng rừng trên cả hai hệ sinh thái ngọt – mặn.

Đổi thay vùng U Minh hạ

Năm 2009, khu vực U Minh Hạ bắt đầu thực hiện chuyển đổi một phần diện tích rừng tràm bản địa sang trồng keo lai bằng phương pháp lên liếp (đắp bờ) trồng tập trung, theo thời gian diện tích trồng keo lai đã tăng nhanh vào các năm tiếp theo. Ðến năm 2022, có trên 23.500 ha rừng U Minh Hạ được chuyển đổi từ trồng tràm truyền thống sang lên liếp trồng rừng theo hướng thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm (keo lai 11.250 ha, tràm 12.250 ha). Keo lai sinh trưởng nhanh, rừng trồng 5 năm tuổi trữ lượng bình quân từ 200-260 m3/ha, có những nơi lên trên 300 m3/ha (cây có đường kính trên 20 cm chiếm trên 35% số cây).

Rừng U Minh hạ Cà Mau
Rừng U Minh hạ Cà Mau

Song song với cách trồng cây keo lai theo kiểu lên liếp mang lại hiệu quả kinh tế trên những khu vực phèn nặng, cách lên liếp trồng rừng tràm bản địa cũng đã tăng năng suất cao. Thời gian thu hoạch cho cây tràm đã rút ngắn từ bình quân 10 năm như trước kia, nay chỉ còn từ 5-7 năm.

Ông Phạm Văn Khanh, ấp 4, xã Khánh Bình Tây Bắc huyện Trần Văn Thời tỉnh Cà Mau cho biết: “Hàng năm, gia đình khai thác khoảng 1-5ha rừng tràm bản địa cung cấp cho các nhà thầu xây dựng, năm sau tiếp tục khai thác ở cánh rừng khác. Cuốn chiếu theo kiểu trên, sau 5-7 năm là có thể khai thác lại cánh rừng ban đầu. Trừ hết chi phí, mỗi năm kiếm được 500 triệu đến hơn 1 tỷ đồng tùy sản lượng và giá tại thời điểm.”

Anh Phạm Văn Khanh, ấp 4 xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời mỗi năm thu về hàng tỷ đồng từ khai thác rừng tràm
Anh Phạm Văn Khanh, ấp 4 xã Khánh Bình Tây Bắc, huyện Trần Văn Thời mỗi năm thu về hàng tỷ đồng từ khai thác rừng tràm

Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, đơn vị đang quản lý 23.966 ha rừng. Diện tích quy hoạch trồng rừng  trên 19.400 ha. Ngoài loài cây tràm bản địa, khu vực rừng tràm đã nhập ngoại cây keo lai và tràm Úc. Trong đó, diện tích keo lai là 5.924 ha, chiếm 32%, năng suất bình quân khoảng 160-180 m3, giá trị 140-160 triệu đồng/ha; tràm thâm canh diện tích 7.622 ha, chiếm 40%, năng suất bình quân khoảng 120-150 m3, giá trị 60-80 triệu đồng/ha; tràm quảng canh 2.243 ha, chiến 12%, năng suất bình quân khoảng 50-70 m3, giá trị 40-60 triệu đồng/ha.

“Việc phát triển trồng rừng thâm canh đáp ứng nguyện vọng của người kinh doanh rừng, tăng về khối lượng trên một đơn vị diện tích gấp 1,5-2 lần so với trước đây” -ông Trần Ngọc Thảo, Giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp U Minh Hạ, cho biết.

Rừng ngập mặn... “ngập tiền”

Rừng U Minh hạ nhiều chuyển biến tích cực, thì rừng ngập mặn Cà Mau đang có nhiều lợi thế hơn. Ðối với khu vực rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng - tôm kết hợp bền vững và giảm phát thải có chứng nhận quốc tế, được Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) hỗ trợ xây dựng từ năm 2013. Theo đó, đến nay, đã có 4.159 hộ với diện tích 21.937 ha, có chứng nhận rừng - tôm bền vững theo các tiêu chuẩn quốc tế (hữu cơ). Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng với mức bình quân 500 ngàn đồng/ha/năm khi mua tôm nuôi từ diện tích rừng này.

Ông Lâm Ngọc Kiên, Trưởng ban Quản lý rừng phòng hộ Ðất Mũi cho biết: Mô hình phát triển rừng kết hợp rừng - tôm là hướng đi thiết thực trong tình hình hiện nay. Qua đó, giúp cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng dân cư có ý thức tự giác, tích cực tham gia mô hình rừng - tôm kết hợp theo hướng bền vững, góp phần thích ứng với biến đổi khí hậu; đồng thời tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho toàn bộ hộ dân trên lâm phần, tích cực tham gia quản lý tài nguyên rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và tăng cường trữ lượng khí cac-bon.

Nuôi tôm kết hợp trồng rừng ở huyện Ngọc Hiển,
Nuôi tôm kết hợp trồng rừng ở huyện Ngọc Hiển,

“Mô hình còn là hướng đi mới, thực hiện công cuộc giảm nghèo, tạo điều kiện xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Ngọc Hiển” – ông Kiên nhấn mạnh.

 Tại huyện Ngọc Hiển, Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển đã phối hợp với Công ty Camimex thu mua tôm nguyên liệu dưới tán rừng và thực hiện chi trả dịch vụ rừng khi được chứng nhận mô hình tôm - rừng trên toàn bộ diện tích rừng đơn vị này quản lý. Theo mô hình trên, đã có 1.633 hộ tham gia cho phần diện tích trên 9.409 ha, với diện tích đất có rừng 4.535,14 ha.

Rừng ngập mặn hồi sinh, đưa kinh tế vùng này đi lên theo hướng bền vững
Rừng ngập mặn hồi sinh, đưa kinh tế vùng này đi lên theo hướng bền vững

“Việc này đã tạo điều kiện tốt cho việc xây dựng mô hình rừng - tôm, kết hợp với bảo vệ rừng hiệu quả, mô hình đang được nhân rộng và phát triển trên lâm phần. Từ đó, công tác bảo vệ, trồng rừng đi vào nền nếp hơn, khai thác rừng thực hiện theo phương án quản lý rừng bền vững được cấp thẩm quyền phê duyệt. Ðây được xem là những hoạt động mới hiệu quả trong các năm gần đây của đơn vị” - Ông Lưu Tấn Hùng, Phó giám đốc Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Ngọc Hiển nói.

Còn đó những khó khăn, trăn trở

Trên cả hai vùng rừng ngọt – mặn cho thấy, kinh tế lâm nghiệp đang trên đà phát triển với nhiều tiềm năng nhưng vẫn chưa phát huy hết lợi thế. Khi chất lượng rừng trồng chưa cao, lâm sản tiêu thụ không ổn định, chủ yếu bán cây ngay tại rừng, gỗ nhỏ chiếm tỷ lệ lớn, đặc biệt là chưa gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ. Mô hình trồng rừng kinh doanh gỗ lớn và chuyển rừng trồng kinh doanh gỗ nhỏ sang kinh doanh gỗ lớn chưa được sự hưởng ứng của người trồng rừng, còn khó triển khai nhân rộng.

Hiện Cà Mau vẫn chưa có nhà máy công suất lớn để tiêu thụ hết lâm sản hàng năm
Hiện Cà Mau vẫn chưa có nhà máy công suất lớn để tiêu thụ hết lâm sản hàng năm

Theo ghi nhận của báo Kinh tế và Đô thị, trên địa bàn Cà Mau vẫn chưa có nhà máy chế biến lâm sản từ rừng quy mô lớn, đủ sức tiêu thụ hết các sản phẩm từ những cánh rừng của địa phương. Ông Trần Văn Thức, phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Cà Mau cho biết: “Hiện nay, công nghiệp chế biến lâm sản trong khu vực chưa phát triển. Tại Cà Mau, chỉ có các cơ sở gia công nhỏ lẻ, chưa có các nhà máy công suất lớn đi vào hoạt động và tiêu thụ sản phẩm ổn định cho người trồng rừng, nên chưa hình thành chuỗi liên kết giá trị sản phẩm trong trồng, khai thác, chế biến lâm sản; đầu ra của sản phẩm rừng trồng chưa ổn định.”

Cây keo lai được trồng cùng với cây tràm bản địa đang là hướng đi đúng của vùng ngọt ở rừng U Minh hạ
Cây keo lai được trồng cùng với cây tràm bản địa đang là hướng đi đúng của vùng ngọt ở rừng U Minh hạ

Theo ông Thức, giá trị tăng trưởng kinh tế lâm nghiệp đạt thấp, sức cạnh tranh yếu khi tỷ trọng của lĩnh vực lâm nghiệp chỉ góp vào giá trị của ngành nông nghiệp ở mức 1,44%, trong khi tỷ lệ diện tích rừng trên diện tích tự nhiên rất lớn, chiến 17,4% diện tích tự nhiên của tỉnh...

Cây keo lai đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng rừng U Minh hạ
Cây keo lai đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng rừng U Minh hạ

Định hướng phát triển rừng trong thời gian tới, ngành lâm nghiệp Cà Mau sẽ giới hoá, áp dụng khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ vào trồng rừng sản xuất, kinh tế lâm nghiệp sẽ được tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Ðây là cơ sở đánh giá và cấp chứng chỉ rừng trồng, tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng rừng; đồng thời tăng cường trữ lượng khí cac-bon rừng, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu.

“Theo đó, sẽ tập trung chuyển đổi từ trồng rừng quảng canh sang trồng rừng thâm canh với diện tích 29.000 ha, bao gồm cây keo lai khoảng 12.000 ha, cây tràm các loại 17.000 ha; trong đó rừng gỗ lớn loài cây keo lai chiếm khoảng 10% diện tích trồng keo tại khu vực rừng U Minh Hạ. Ðối với khu vực rừng ngập mặn, rừng sản xuất và rừng phòng hộ (nơi có sản xuất kết hợp) tập trung phát triển mô hình rừng - tôm bền vững theo hướng chứng nhận tôm sinh thái (hữu cơ) theo tiêu chuẩn quốc tế, với diện tích 38.000 ha, sản phẩm gỗ khai thác cung cấp nguyên liệu cho chế biến” – ông Trần Văn Thức nói.