Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Sẽ có làn sóng FDI vào công nghiệp hỗ trợ

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Một trong những mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp (DN) Việt Nam là làm thế nào tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ, tăng tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm.

Đây là vấn đề nóng được nêu ra tại hội thảo “Kết nối chuỗi cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, thay thế hàng nhập khẩu và tăng tỉ lệ nội địa hóa sản phẩm” vừa diễn ra.

Làn sóng FDI mới, chất lượng cao đổ bộ

GS-TSKH Nguyễn Mại - Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài - nhận định: “Nhu cầu phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) rất lớn và đang gia tăng với dự báo làn sóng FDI mới có chất lượng cao hơn từ các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế, nhất là khi Việt Nam (VN) gia nhập TPP. Các tập đoàn kinh tế lớn như Samsung, LG, Intel, Canon, Microsoft - Nokia rất cần DN VN tham gia chuỗi giá trị sản phẩm toàn cầu với điều kiện đáp ứng các tiêu chí của từng tập đoàn”.
Công nghiệp hỗ trợ nội địa của nước ta còn non trẻ, tỉ lệ cung ứng linh kiện, phụ tùng nội địa cho các nhà lắp ráp thấp.
Công nghiệp hỗ trợ nội địa của nước ta còn non trẻ, tỉ lệ cung ứng linh kiện, phụ tùng nội địa cho các nhà lắp ráp thấp.
Kinh nghiệm của thế giới cũng chỉ ra rằng, việc phát triển mạng lưới CNHT của DN bản địa có lợi hơn nhiều cho từng tập đoàn vì có thể tiết kiệm chi phí, nhất là đối với linh kiện, phụ tùng nhập khẩu phải chịu thêm chi phí và thời gian vận chuyển, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất do chủ động hợp đồng cung ứng sản phẩm, bảo đảm nguyên tắc xuất xứ trong hiệp định FTA, đặc biệt là TPP.

“Thông tin từ Samsung điện tử VN (SEV) là trong năm nay đã có 215 DN VN đến tìm kiếm cơ hội hợp tác với SEV để sản xuất công nghiệp hỗ trợ, trong đó có 41 DN chuẩn bị ký hợp đồng với SEV với hy vọng năm 2016 sẽ có hơn 100 DN tham gia chuỗi giá trị của SEV. Xe máy, ôtô, may mặc, giày da là những ngành có số lượng DN CNHT ngày càng gia tăng và tạo ra tỉ lệ nội địa hóa ngày càng cao” - GS Nguyễn Mại nhấn mạnh.

Ưu đãi khó tiếp cận

Ông Phạm Anh Tuấn - Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp (Bộ Công Thương) - cho rằng: “CNHT nội địa của nước ta còn non trẻ, tỉ lệ cung ứng linh kiện, phụ tùng nội địa cho các nhà lắp ráp thấp và các sản phẩm CNHT có giá trị gia tăng cao vẫn do các DN đầu tư nước ngoài đảm nhận. Ngành CNHT vẫn phải phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến sản xuất còn manh mún, bị động, chi phí sản xuất cao, giá thành cao trong khi giá nhân công “bèo bọt”.

Đến nay, các DN nội địa chỉ mới cung ứng được khoảng 10% nhu cầu nội địa về sản phẩm CNHT. Các sản phẩm chủ yếu là linh kiện và vật liệu đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản phẩm”.

Bên cạnh đó, mặc dù Nhà nước đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ các DN CNHT như thành lập Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia nhằm hỗ trợ tài chính, cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh vay vốn đối với các tổ chức, cá nhân và DN thực hiện nghiên cứu, chuyển giao, đổi mới công nghệ. Kinh phí 1.000 tỉ đồng do ngân sách nhà nước về hoạt động KHCN cấp, nhưng hầu như DN nhỏ và vừa không thể tiếp cận được nguồn vốn này do hạn chế năng lực hấp thụ và thủ tục còn nặng về “hành là chính”.

Tập trung phát triển nhóm sản phẩm có lợi thế cạnh tranh

Từ thực trạng chung của ngành CNHT nêu trên, theo ông Phạm Anh Tuấn, các DN CNHT muốn phát triển và tham gia được vào chuỗi sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia phải đáp ứng được 3 yếu tố, đó là chất lượng ổn định, giao hàng đúng hẹn và giá cả hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có một số ít các DN trong nước đáp ứng được cả 3 yếu tố trên.

Bên cạnh đó, ông Lưu Hoàng Long - Chủ tịch Hiệp hội DN điện tử VN - đưa ra giải pháp: “Chính phủ và Bộ Công Thương cần xác định danh mục các nhóm sản phẩm CNHT mà trong nước có lợi thế cạnh tranh để phát triển, từ đó đề ra các chính sách hỗ trợ các DN sản xuất sản phẩm CNHT thuộc nhóm này để từng bước phát triển.

Thêm vào đó, đề nghị các DN lớn trong nước nên sử dụng sản phẩm CNHT trong nước để đẩy mạnh cuộc vận động “Người VN ưu tiên dùng hàng VN. Các cơ quan quản lý nhà nước cần hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa để tạo mối liên kết giữa DN sản xuất lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh với các nhà sản xuất sản phẩm CNHT, giữa các nhà sản xuất CNHT với nhau và giữa các DN FDI và DN nội địa”.