Sớm khơi thông nguồn lực xây dựng hạ tầng hàng không

Nguyễn Quý
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Hạ tầng hàng không vẫn chưa hoàn thiện và phải đầu tư rất nhiều trong thời gian tới. Tuy nhiên, việc huy động nguồn lực xã hội để làm sân bay trong bối cảnh hiện nay không dễ dàng, cần phải sớm có giải pháp tổng thể.

Quy hoạch cảng hàng không đã được phê duyệt nhưng khó khăn mới chỉ bắt đầu.
Quy hoạch cảng hàng không đã được phê duyệt nhưng khó khăn mới chỉ bắt đầu.

Quy hoạch đã xong, khó khăn mới chỉ bắt đầu

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 648/QĐ – TTg (ngày 7/6) về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là quy hoạch ngành quốc gia cuối cùng trong lĩnh vực giao thông được Chính phủ phê duyệt. 

Theo đó, đến năm 2030, cả nước giữ 14 cảng quốc tế như hiện nay gồm: Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc.

Cùng với đó, 16 cảng quốc nội gồm: Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Mê Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, Thành Sơn và Biên Hòa. Trong đó sân bay Thành Sơn và Biên Hòa được quy hoạch để khai thác lưỡng dụng cả quân sự, dân sự.

Như vậy, ngoài ngoài 28 sân bay đã được quy hoạch, Chính phủ quyết định bổ sung hai sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận) và Biên Hòa (Đồng Nai). Điều này đồng nghĩa, đến năm 2030, cả nước sẽ có 16 sân bay quốc nội thay vì 14 như đề xuất trước đó của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT).

Cũng theo quy hoạch trên, đến năm 2050, cả nước sẽ có 33 cảng hàng không. Trong 14 cảng quốc tế giai đoạn này không còn Cát Bi mà thay vào đó là cảng Hải Phòng, nằm tại huyện Tiên Lãng. Trong 19 cảng quốc nội có thêm 3 cảng mới Cát Bi, Cao Bằng và cảng thứ hai vùng Thủ đô. Riêng sân bay thứ hai vùng Thủ đô, Chính phủ quyết định quy hoạch là vận tải hành khách nội địa, thay vì là cảng quốc tế như đề xuất của địa phương.

Một trong những điều được dư luận đặc biệt quan tâm là chúng ta sẽ huy động nguồn vốn ở đâu để hoàn thiện hệ thống cảng hàng không, sân bay đã được phê duyệt như trên. Bởi theo tính toán, nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng hàng không đến năm 2030 lên tới khoảng 420.000 tỷ đồng. Số tiền này sẽ được huy động từ nhiều nguồn khác nhau, gồm nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn ngoài ngân sách và các nguồn hợp pháp khác.

Riêng ngân sách Nhà nước hiện nay vẫn đang gặp khó khăn và phải dàn trải ra đầu tư trên rất nhiều lĩnh vực. Chỉ tính ngành giao thông, nguồn vốn ngân sách đầu tư cho hạ tầng giao thông hiện nay và trong thời gian tới là rất lớn vì đang có nhiều dự án lớn đang triển khai, trong đó có cả hai “siêu dự án” là cao tốc Bắc – Nam phía Đông và dự án Cảng Hàng không quốc tế Long Thành.

Bởi vậy, nguồn ngân sách dành cho phát triển hạ tầng hàng không được dự báo sẽ hạn chế. Các chuyên gia nhận định, hiện quy hoạch mạng lưới cảng hàng không, sân bay đã xong nhưng để hiện thực hóa được hạ tầng hàng không như quy hoạch, mọi khó khăn mới chỉ bắt đầu.

Cảng hàng không Vân Đồn là sân bay hiếm hoi được đầu tư hạ tầng bằng nguồn vốn xã hội hóa.
Cảng hàng không Vân Đồn là sân bay hiếm hoi được đầu tư hạ tầng bằng nguồn vốn xã hội hóa.

Phải nhanh, gọn

Theo Cục Hàng không Việt Nam, kết quả rà soát của cơ quan này cho thấy, trong tổng số 479.600 tỷ đồng nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2021 - 2030 số tiền đầu tư khu phía Bắc, nhà ga hành khách T3 và khu bay phía Nam của sân bay Nội Bài là hơn 96.500 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các sân bay khác có nhu cầu đầu tư ở mức chục nghìn tỷ đồng trở lên gồm: Tân Sơn Nhất (hơn 12.200 tỷ đồng), Cam Ranh (gần 20.000 tỷ đồng), Đà Nẵng (hơn 18.800 tỷ đồng), Cát Bi (hơn 10.600 tỷ đồng), Vinh (hơn 14.400 tỷ đồng), Phú Bài (hơn 13.300 tỷ đồng), Phú Quốc (hơn 12.600 tỷ đồng), Phan Thiết (gần 11.000 tỷ đồng).

Với nhu cầu vốn lớn như trên, việc huy động nguồn lực xã hội hóa là con đường duy nhất để hiện thực hóa mục tiêu hoàn thiện hạ tầng hàng không. Để làm được điều này, Bộ GTVT đang lấy ý kiến các địa phương về đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng các cảng hàng không, trong điều kiện ngân sách Nhà nước bố trí chỉ đáp ứng khoảng 65,8% nhu cầu.

Theo các chuyên gia, huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng hàng không không phải mới, song cách làm này đang không phát huy được hiệu quả do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có vấn đề vướng mắc về mặt thủ tục.

Chuyên gia hàng không Lương Hoài Nam cho biết, thực tế này đã và đang xảy ra tại nhiều dự án đầu tư xây dựng, nâng cấp sân bay ở các địa phương, điển hình nhất là tại sân bay Vinh ở Nghệ An, sân bay Phù Cát ở Bình Định, sân bay Thành Sơn ở Ninh Thuận. Mặc dù chính quyền những tỉnh này đều rất thiện chí và mong muốn nhà đầu tư vào làm để hạ tầng hàng không địa phương sớm được cải thiện song đến nay rất nhiều nhà đầu tư đến rồi lại quay lưng rời đi. Nguyên nhân được cho là vì thủ tục quá rườm rà và chưa rõ ràng.

TS Nguyễn Sỹ Dũng – nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho rằng, việc sớm cởi nút thắt về cơ chế xã hội hóa đầu tư, nâng cấp các sân bay, cảng hàng không hiện hữu đang là vấn đề cấp thiết để sớm cụ thể hóa các dự án ưu tiên được đề cập trong Quy hoạch Tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực hàng không khẳng định, muốn thu hút được nguồn lực xã hội hóa, trước tiên cần phải đẩy nhanh các thủ tục, hành lang pháp lý để triển khai đầu tư vào hạ tầng sân bay. Bởi theo đánh giá, hạ tầng hàng không hiện đã quá tải so với nhu cầu phát triển của đất nước, do đó, phải sớm có cách thức để mở rộng, nhằm góp phần tăng tính kết nối, tạo điều kiện mở rộng phát triển kinh tế, du lịch, thu hút đầu tư...

 

Bộ GTVT đang xây dựng Đề án huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng càng hàng không, trong đó, xác định danh mục dự án và lộ trình huy động nguồn vốn. Cụ thể, năm 2023 hoàn thành cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về nhượng quyền đầu tư, khai thác kết cấu hạ tầng càng hàng không. 

Năm 2026 hoàn thành thí điểm nhượng quyền đầu tư, khai thác. Đến năm 2030, nâng tỷ trọng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng càng hàng không theo phương thức PPP; phương thức nhượng quyền đầu tư, khai thác và phương thức đầu tư trực tiếp tại các càng hàng không của Việt Nam từ 20,5% lên 24,9%.