Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Sự kiện kinh tế tuần: GDP tăng cao nhất trong gần thập kỷ

Tiến Thành
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - GDP 9 tháng tăng 6,98%; Công bố 50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam; Chính phủ sẽ xây dựng nghị quyết về thúc đẩy phát triển ngành cơ khí; Cảnh báo chất lượng thu hút đầu tư nước ngoài; Thương hiệu giày Việt về tay doanh nghiệp Nhật... là nội dung chú ý tuần qua.

Chính phủ sẽ xây dựng nghị quyết về thúc đẩy phát triển ngành cơ khí

Ngày 24/9, tại Hà Nội, Thủ tướng đã dự Hội nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển ngành cơ khí Việt Nam do Văn phòng Chính phủ tổ chức.
Theo Thủ tướng, cơ khí là ngành sản xuất nền tảng, từng "vang bóng một thời" với nhiều doanh nghiệp có tầm cỡ, năng lực, trí tuệ thông minh. Tuy nhiên, có thời kỳ cơ khí chưa được coi trọng, nên nhiều nhà máy cơ khí lớn thành chung cư, việc tái sử dụng nguồn lực chưa được quan tâm đúng mức.
Sự kiện kinh tế tuần: GDP tăng cao nhất trong gần thập kỷ - Ảnh 1
Thủ tướng khẳng định sẽ có nghị quyết thúc đẩy phát triển cơ khí - Ảnh: CP

Chỉ ra những mặt hạn chế và bất cập, Thủ tướng nói nhiều lĩnh vực trong cơ khí chưa tương xứng như mẫu mã, công nghệ, tổ chức thị trường. Ngành cơ khí vẫn ít doanh nghiệp đầu tàu, nhân lực còn thiếu và yếu, năng lực thấp, giá thành sản xuất cao. Đặc biệt, chính sách hỗ trợ cho phát triển còn chậm đổi mới, cả tư duy chính sách đầu vào và đầu ra.

"Cần có chính sách đi tắt đón đầu trong cơ khí, thành công của thế giới và lợi thế Việt Nam, phát huy lợi thế người đi sau. Làm sao để có tính hiệu quả, hiện đại, tinh xảo trong một số lĩnh vực cần được nâng cao như ôtô, nông nghiệp, cơ khí chính xác, lắp ráp…" - Thủ tướng nhấn mạnh.

Trước đó, báo cáo về thực trạng và giải pháp thúc đẩy phát triển ngành cơ khí Việt Nam, ông Trần Tuấn Anh - bộ trưởng Bộ Công thương - cho hay tính đến hết năm 2017, số lượng doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động và có kết quả kinh doanh khoảng 25.014 doanh nghiệp, chiếm gần 30% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo.

Cơ khí Việt Nam có thế mạnh tập trung ở ba phân ngành gồm xe máy và phụ tùng linh kiện xe máy, cơ khí gia dụng và dụng cụ, ôtô và phụ tùng ôtô. Số liệu thống kê cho thấy ba phân ngành này chiếm gần 70% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cơ khí cả nước.

Tuy nhiên, ngành cơ khí vẫn còn nhiều hạn chế như có rất ít thương hiệu trong nước, doanh nghiệp cơ khí nội địa phổ biến là quy mô nhỏ, có năng lực cạnh tranh thấp, chưa làm chủ được công nghệ lõi hoàn chỉnh, mới đáp ứng được hơn 32% nhu cầu trong nước.

Thủ tướng giao nhiệm vụ yêu cầu Bộ Công thương chủ trì xây dựng nghị quyết về thúc đẩy phát triển ngành cơ khí "mang hơi thở cuộc sống", các bộ ngành liên quan khác có các biện pháp và giải pháp phát triển ngành cơ khí.
"Việt Nam cần xây dựng ngành cơ khí ngang tầm các nước trong khu vực nên doanh nghiệp cần nỗ lực hơn, chủ động đầu tư và ứng dụng khoa học kỹ thuật, thúc đẩy phát triển ngành. Chính phủ, Thủ tướng luôn đồng hành với ngành cơ khí, tạo điều kiện tốt với hành động cụ thể" - Thủ tướng nhấn mạnh.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư lý giải vì sao giải ngân vốn đầu tư công chậm

Sáng 26/9, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị trực tuyến toàn quốc với các Bộ ngành, địa phương về thúc đẩy phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2019.

Tham dự Hội nghị có Phó Chủ tịch nước Đặng Thị Ngọc Thịnh, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Phó Thủ thướng Trịnh Đình Dũng cùng lãnh đạo các Bộ, ngành T.Ư và địa phương trên cả nước. Tại điểm cầu Hà Nội có sự tham dự của Chủ tịch UBND TP Nguyễn Đức Chung.

 Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung tham luận tại Hội nghị.

Đầu tư công là một trong những nguồn lực rất lớn, quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là phát triển hạ tầng của tất cả các vùng miền. Đầu tư công góp khoảng 10,7% giá trị GDP, 32% mức đầu tư toàn xã hội năm 2019.

Tuy nhiên, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, đặc biệt, năm 2019 được cho là năm chậm nhất trong nhiều năm qua. Theo báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong tổng nguồn vốn 429.300 tỷ đồng được phân bổ vốn sẵn sàng giải ngân khoảng 367.000 tỷ, bằng 85,5% dự toán.

Theo đánh giá của Bộ trưởng bộ KH&ĐT, vốn sẵn sàng giải ngân cao, đây không phải nguyên nhân trực tiếp của việc giải ngân thấp. Viẹc giải ngân chậm đến từ rất nhiều nguyên nhân như: Vướng mắc về thể chế, pháp luật; Công tác lập kế hoạch chưa sát với thực tế; Công tác triển khai của các bộ/ngành, địa phương còn chậm trễ…

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhận định, việc giải ngân chậm đã tạo ra nút thắt cổ chai cho nền kinh tế, điều này gây ra 4 hậu quả lớn: Ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và GDP; Ảnh hưởng đến nguồn lực của các dự án lớn, ảnh hưởng đến huy động vốn xã hội, sâu xa là ảnh hưởng đến uy tín quốc gia; Gây lãng phí lớn vì tiền đã được bố trí mà “nằm một chỗ” không thể chi; Gánh nặng cho doanh nghiệp khi phải đội vốn, ảnh hưởng đến uy tín, việc làm và lãng phí thời gian…

Về phía Hà Nội, Chủ tịch UBND TP Nguyễn Đức Chung cho biết, trong năm 2019 đã giao kế hoạch vốn đầu tư theo quyết định số 6688/QĐ-UBND ngày 07/12/2018 với tổng số vốn hơn 44.917 tỷ đồng, trong đó chi đầu tư cấp TP là hơn 29.019 tỷ đồng, cấp huyện là hơn 15.897 tỷ đồng.

Qua điều chỉnh, tổng kế hoạch vốn cho đầu tư của toàn TP đến nay là hơn 52.524 tỷ đồng, trong đó chi ngân sách cấp TP là hơn 31.490 tỷ đồng, chi ngân sách cấp huyện là hơn 21.034 tỷ đồng. Tổng mức vốn kế hoạch đầu tư năm 2019 tính đến thời điểm này là hơn 47.388 tỷ đồng.

Tính đến 15/9, toàn TP đã giải ngân vốn đầu tư thuộc kế hoạch năm 2019 được 14.175 tỷ đồng... Một số đơn vị, địa phương có mức giải ngân khá như: UBND quận Hà Đông (99%), UBND huyện Thanh Trì (92%), UBND huyện Quốc Oai (73%), UBND huyện Đan Phượng (64%), Ban QLDA đầu tư xây dựng công trình nông nghiệp và phát triển nông thôn (44%).

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá rất cao hiệu quả công tác giải ngân vốn đầu tư công của TP Hà Nội. “Hà Nội đã chủ động đưa ra nhiều biện pháp mới trong giai đoạn còn nhiều khó khăn. Phân cấp mạnh mẽ cho các quận, huyện và vận dụng cơ chế linh hoạt để giải phóng mặt bằng. Qua đó, đạt hiệu quả giải ngân vốn đầu tư công rất tích cực” - Thủ tướng nhận định.

Cảnh báo chất lượng thu hút đầu tư nước ngoài
Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch - đầu tư cho biết tính đến cuối tháng 8-2019, tổng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp trong nước đạt 22,63 tỉ USD, bằng 92,9% cùng kỳ 2018.

 Phó thủ tướng Vương Đình Huệ: Chính phủ sẽ sàng lọc dự án đầu tư FDI theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Ảnh: TTO

Trong khi đó, số dự án FDI được cấp mới đạt 2.406 dự án, tăng 25,4% số dự án FDI cấp mới, tổng vốn FDI đăng ký cấp mới đạt 9,13 tỉ USD, bằng 67,7% cùng kỳ năm trước. Quy mô vốn đầu tư các dự án FDI giảm, trong 8 tháng năm 2019 không có dự án đầu tư mới nào có quy mô vốn trên 300 triệu USD.
Phát biểu tại phiên họp quý 3 của Hội đồng tư vấn Chính sách tiền tệ quốc gia hôm 25/9, Phó thủ tướng Vương Đình Huệ chia sẻ với lo ngại của các thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tiền tệ quốc gia, ông cho biết Chính phủ sẽ hoàn thiện pháp luật về đầu tư FDI, khắc phục các rủi ro bằng biện pháp sàng lọc, kiểm soát đầu tư theo tinh thần Nghị quyết số 50 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.
Đó là, không thu hút hợp tác ở các lĩnh vực đang dư thừa công suất vì chiến tranh thương mại, dự án được thẩm lậu công nghệ từ nước khác sang Việt Nam hay dự án ở một số lĩnh vực nhạy cảm năng lượng, cảng biển, đường sắt, an ninh quốc phòng.
Tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tiền tệ quốc gia đều nhận định mặc dù kinh tế thế giới và các nền kinh tế lớn tăng trưởng chậm lại, thị trường tài chính tiền tệ, thương mại toàn cầu biến động phức tạp nhưng kinh tế trong nước diễn biến khả quan và đạt nhiều kết quả quan trọng trong 9 tháng.
Đặc biệt, các thành viên hội đồng đánh giá cao điều hành chính sách tiền tệ đạt kết quả tích cực trong bối cảnh rủi ro gia tăng. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 0,25 điểm lãi suất điều hành, làm giảm chi phí vay vốn, tạo điều kiện ổn định mặt bằng lãi suất thị trường.
Lãi suất cho vay phổ biến tại các ngân hàng thương mại ở mức 6-9%/năm đối với vay ngắn hạn và 9-11%/năm đối với khoản vay trung và dài hạn, bảo đảm cung tiền cho nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, Hội đồng tư vấn Chính sách tiền tệ quốc gia cũng lưu ý về năng lực hấp thụ vốn của nền kinh tế còn kém do vướng mắc thể chế, trong đó có việc chậm phân bổ, giải ngân vốn đầu tư công, phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, các vướng mắc trong đầu tư tư nhân, thực hiện các hợp đồng công tư.
Các thành viên hội đồng cũng lưu ý nếu Chính phủ không gỡ được các nút thắt này thì sẽ khó bảo đảm cho tăng trưởng cao hơn mà còn ảnh hưởng tới suy giảm tăng trưởng trong thời gian tới.
Ngoài các vấn đề lớn trên, các thành viên hội đồng cũng đưa ra khuyến nghị nên kích thích phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp thay vì tạo ra những quy định hạn chế thị trường này. Bên cạnh đó, Chính phủ xem xét bảo lãnh Chính phủ đối với trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu thực hiện các dự án công trình quan trọng của quốc gia.
Tuy nhiên, để kiểm soát được thị trường trái phiếu doanh nghiệp, Chính phủ cần rà soát lại nghị định số 163, tăng cường dịch vụ xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp; tăng kiểm tra, kiểm soát bảo đảm lành mạnh thị trường, gắn kết điều hành trái phiếu Chính phủ với điều hành phát hành trái phiếu doanh nghiệp và chính sách tiền tệ.

GDP 9 tháng tăng 6,98%, cao nhất từ 2011 đến nay

Sáng 28/9, Tổng cục Thống kê (TCTK) thông tin về tình hình phát triển kinh tế - xã hội quý III/2018. Theo đó, 9 tháng năm 2018, GDP ước tính tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng kể từ năm 2011 trở về đây.

Sự kiện kinh tế tuần: GDP tăng cao nhất trong gần thập kỷ - Ảnh 4

Dây chuyền sản xuất tại Công ty Năng lực Việt tại Khu công nghiệp Nam Thăng Long. Ảnh: Thanh Hải

GDP quý III năm 2018 ước tính tăng 6,88% so với cùng kỳ năm trước. Mức này, theo Tổng cục Thống kê tuy thấp hơn mức 7,45% của quý I nhưng cao hơn mức tăng 6,73% của quý II, cho thấy nền kinh tế vẫn giữ được đà tăng trưởng. Trong đó, khu vực nông, lâm, thuỷ sản tăng 3,46%. Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 8,61%. Dịch vụ tăng 6,87%.

Tăng trưởng quý III/2018 thấp hơn cùng kỳ năm trước đó nhưng cao hơn tăng trưởng của quý III các năm từ 2011 - 2016.

Tính chung 9 tháng năm 2018, GDP ước tính tăng 6,98% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng kể từ năm 2011 trở về đây. Trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,65%, đóng góp 8,8% vào mức tăng trưởng chung. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,89% đóng góp 48,7%. Khu vực dịch vụ tăng 6,89% đóng góp 42,5%.

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng năm 2018 ước tính đạt 178,91 tỷ USD, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2017 (quý III đạt 64,73 tỷ USD, tăng 13,9%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 51,07 tỷ USD, tăng 17,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 127,84 tỷ USD (chiếm 71,5% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 14,6%.

Cán cân thương mại hàng hóa 9 tháng năm 2018 tiếp tục xuất siêu 5,39 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 18,26 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 23,65 tỷ USD.

Theo cơ quan thống kê, với mức GDP 9 tháng là 6,98%, để đạt mức 6,7% cả năm, tính toán quý 4 chỉ cần tăng 6,11%. “Thường quý 4 các năm thường tăng trưởng cao nên khả năng đạt trên 6,7% cả năm là hoàn toàn khả thi”, đại diện Tổng Cục Thống kê chia sẻ tại buổi họp báo.

Báo cáo cũng thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9/2018 tăng 0,59% so với tháng trước, tăng 3,20% so với tháng 12/2017 và tăng 3,98% so với cùng kỳ năm 2017. Tính chung quý III/2018, CPI tăng 0,72% so với quý trước và tăng 4 ,14% so với quý III/2017. CPI bình quân 9 tháng năm 2018 tăng 3,57% so với bình quân cùng kỳ năm 2017.

Công bố Top 50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam 2019

Ngày 24/9, Công ty Tư vấn thương hiệu Mibrand Việt Nam kết hợp với Brand Finance chính thức công bố bảng danh sách Top 50 thương hiệu giá trị nhất Việt Nam 2019.

Sự kiện kinh tế tuần: GDP tăng cao nhất trong gần thập kỷ - Ảnh 5
Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel) đứng vị trí thứ nhất trong Top 50 thương hiệu 2019. Ảnh: Khắc Kiên

Trong lần xếp hạng này, tổng giá trị của 50 thương hiệu dẫn đầu đạt 18,9 tỷ USD, tăng 19% so với danh sách trước đó.

Trong 10 thương hiệu dẫn đầu, có các tên tuổi quen thuộc như: Viettel, VNPT, Vinamilk, Vinhomes, Sabeco, MobiFone, ViettinBank, VinaPhone, BIDV và Petrolimex. Các thương hiệu top 10 tạo nên 68% giá trị thương hiệu của bảng xếp hạng top 50 nói chung.

Năm nay, Viettel tiếp tục dẫn đầu danh sách với giá trị thương hiệu hơn 4,3 tỷ USD, vượt trội hơn hẳn phần còn lại của danh sách. Đặc biệt so với 2018, định giá thương hiệu của ông lớn ngành viễn thông đã tăng tới 54%.

Trong khi đó, từ vị trí số 2, Vinamilk đã phải nhường ngôi cho một đại diện khác của ngành viễn thông là VNPT. Định giá thương hiệu của VNPT năm nay được ghi nhận ở mức 1,68 tỷ USD, tăng gần 26% so với 2018. Còn Vinamilk có mức định giá giảm nhẹ khoảng 15%, từ 1,9 tỷ USD xuống 1.61 tỷ USD.

Xét theo lĩnh vực, các thương hiệu thuộc nhóm ngành viễn thông đang chiếm 38% tổng giá trị thương hiệu trong top 50, sau đó đến ngành thực phẩm (15%) và ngành ngân hàng (11%). Các ngành bia, bất động sản và bán lẻ đóng góp lần lượt là 8%, 7% và 5%.

Ông Samir Dixit - Giám đốc điều hành Brand Finance Châu Á Thái Bình Dương cho biết việc định giá thương hiệu sẽ giúp doanh nghiệp thiết lập lộ trình hợp lý để tối đa hóa lợi nhuận, thu hẹp khoảng cách giữa marketing và tài chính chính.

"Chúng tôi hiểu tầm quan trọng của thiết kế, quảng cáo và marketing nhưng chúng tôi cũng tin rằng mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của các thương hiệu là kiếm tiền. Đó là lý do tại sao chúng tôi kết nối các thương hiệu với lợi nhuận ròng", ông Samir Dixit chia sẻ.

Được biết, Brand Finance tính toán giá trị các thương hiệu trong bảng xếp bằng "phương pháp Chiết khấu Phí bản quyền". Phương pháp này ước tính doanh số tương lai được tạo ra từ thương hiệu và tính toán tỷ lệ phí bản quyền trả cho việc sử dụng thương hiệu, tức là công ty muốn sử dụng thương hiệu sẽ phải trả bao nhiêu tiền - với giả định rằng thương hiệu không thuộc sở hữu của công ty đó.

Thương hiệu giày Việt về tay doanh nghiệp Nhật

Công ty TNHH MTV Global Fashion (GF), chủ sở hữu thương hiệu giày, túi xách nữ Vascara vừa sáp nhập vào Stripe International (Nhật Bản) thông qua hình thức bán lại gần hết cổ phần. Giá trị thương vụ không được tiết lộ.
 Giao diện của Vascara 
Tuy giá trị thương vụ không được tiết lộ nhưng phía Vascara cho biết với sự đầu tư, tăng vốn từ doanh nghiệp Nhật sẽ giúp thương hiệu Vascara phát triển mạnh hơn trong thời gian tới.
Giám đốc điều hành GF cho biết, sau thương vụ, Stripe có quyền chi phối hoạt động của GF, nhưng hiện tại toàn bộ đội ngũ lãnh đạo của GF không thay đổi và tiếp tục điều hành công ty. Stripe chỉ hỗ trợ tư vấn về mặt chiến lược để mở rộng cửa hàng và tăng trải nghiệm khách hàng.
Chủ tịch hội đồng quản trị Stripe Saigon - đánh giá cao tiềm năng của thị trường thời trang Việt Nam, đặc biệt là ngành giày dép, túi xách.
Stripe International cũng là tập đoàn đã mua lại thương hiệu thời trang dành cho phái nữ NEM trong năm 2017, hiện tập đoàn này đang sở hữu 20 thương hiệu thời trang và việc sáp nhập Vascara đã nâng số cửa hàng của tập đoàn này trên toàn thế giới lên 1.400 cửa hàng.
Sau 10 năm thành lập và phát triển, Vascara đã nâng số điểm bán lên 134 cửa hàng và kênh thương mại điện tử. Trong năm 2018, thương hiệu thời trang này đã phục vụ hơn 1,5 triệu lượt khách hàng mua sắm.