Thầy Nguyễn Tài Cẩn với chữ nghĩa Truyện Kiều

Bài, ảnh: Giao Hưởng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Năm 2000, Nhà nước công bố Quyết định và trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho 8 nhà khoa học đã cống hiến tài năng đặc biệt xuất sắc trên lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn.

Trước thời điểm trao giải, có 6 vị tên tuổi đã ngồi cùng mâm nhàn du nơi tiên cảnh, đó là các cụ: Hoàng Xuân Hãn, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Phạm Huy Thông, Trần Đức Thảo, Trần Văn Giáp. Có 2 người là GS.TS Ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, GS Sử học Hà Văn Tấn chứng kiến thời khắc đăng quang.

Người thầy với niềm đam mê với Truyện Kiều

Về sự nghiệp giảng dạy nghiên cứu khoa học của thầy Nguyễn Tài Cẩn (1926 - 2011) đã được Nhà nước Việt Nam ghi nhận, còn về con người "đồ Nghệ" Nguyễn Tài Cẩn thì bạn bè đồng nghiệp "gói" trong “8 chữ kim cương”: Sâu sắc - thông thái - nghiêm khắc - tài hoa.

Thầy Nguyễn Tài Cẩn (bên phải) nói về chữ nghĩa Truyện Kiều.
Thầy Nguyễn Tài Cẩn (bên phải) nói về chữ nghĩa Truyện Kiều.

Tháng 1/2006 khi thầy Cẩn về quê, làng Thượng Thọ, xã Thanh Văn, huyện Thanh Chương biết thầy vừa có những phát hiện mới về Truyện Kiều mà anh em chúng tôi chưa được đọc, tôi mạnh dạn nêu khúc mắc về việc là nhà nghiên cứu ngôn ngữ học nhưng thầy lại chuyển sang nghiên cứu về các bản Kiều cổ.

Trả lời câu khúc mắc này, thầy Cẩn cho biết, hai cuốn sách nghiên cứu Truyện Kiều vừa ra, và 500 trường hợp về chữ nghĩa Truyện Kiều sắp công bố, không phải là “đổi món”. Thầy cho biết, đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, thầy cùng với vợ (TS Ngữ học Nona Stankevich) được cử sang dạy tại ĐH Pari VII thời gian 3 tháng.

Sang Pháp hôm trước, hôm sau hai vợ chồng đến thăm cụ Hoàng Xuân Hãn đặt vấn đề với cụ về việc sang Pháp, cái gì có thể làm được mà ở Hà Nội không làm được? Cụ Hãn bảo, có hai việc, một vào cơ quan truyền giáo nước ngoài vì đạo công giáo của mình có từ thế kỷ XVI - XVII đến nay. Hai, thu thập các bản văn cổ, ví dụ như các bản Kiều cổ mà ở nhà không có.

Thế là trong 3 tháng ở Pháp, thầy Cẩn dành 2 tháng “mắc võng” tại cơ quan truyền giáo nước ngoài, bám riết cụ Snayde người Pháp và cụ Hoàng Xuân Hãn để thu thập Truyện Kiều.

Và thầy đã thu thập được 9 bản Kiều cổ để nghiên cứu, trong đó thầy rất coi trọng bản Duy Minh Thị. Và giữa các bản có khoảng 1.700 câu khác nhau, đến nay đã thống nhất được 1.300 câu. Điều đó thật quý vô cùng, nhưng vẫn còn hàng trăm câu khác nhau và trong số này lại có khoảng 200 câu dễ giải quyết vì thợ khắc sai nên ai cũng thấy được.

Và lý giải những câu chữ còn tranh cãi

Không có ngôn ngữ nào dễ bị “bút sa nhà cháy” như tiếng Việt. Cũng ký hiệu (~) “con giun”, nhưng khi dùng làm thanh điệu ta dựng lên hoặc đặt nằm ngang thì ngữ nghĩa đã khác nhau rồi.

Thầy Nguyễn Tài Cẩn với chữ nghĩa Truyện Kiều  - Ảnh 1

Thưa Thầy, ký hiệu dấu hỏi (?) dấu ngã (~) dẫn đến “nghỉ” hay “nghĩ” trong Gia tư (...) cũng thường thường bậc trung, hoặc chữ “ngày ngày” hay là “ngay ngày” chơi mả Đạm Tiên? Theo thày Cẩn các cụ đồ Nghệ chép về Nguyễn Du, hay bản thân Nguyễn Du đi nữa, chữ “ngay” cũng là “ngày”.

Người Nghệ nói “đi ba ngay chưa về” thì ngay là ngày; dân Bắc, dân Nam, dân Huế không hiểu chữ ngay là ngày. Người đọc sau đọc Ngày ngày chơi mả Đạm Tiên cảm thấy vô lý bèn đổi thành “buổi ngày chơi mả Đạm Tiên”.

Với người Việt để biểu thị ngày và đêm chỉ nói “ban” thôi: Ban ngày ban đêm. Buổi cũng biểu thị thời lượng nhưng ngắn hơn ban; buổi sáng/buổi trưa/buổi chiều/buổi tối. Nói buổi ngày là không đúng, trừ trường hợp nói tắt “bộ phim này chiếu hai buổi, buổi ngày lúc 9 giờ sáng, buổi đêm lúc 23 giờ”.

Người chép sau không hiểu bản chép trước của người Nghệ nên chỉnh sửa thành “Ngày ngày chơi mả Đạm Tiên”. Nếu như đúng mẹ cụ Nguyễn Du chết ở đất Tiên Điền. Cụ ở đây cư tang đến năm 1781 thì tiếng Nghệ trong cụ cũng đậm đặc lắm! Còn “nghĩ” ở đây đồng nghĩa với chữ vốn.

Trong Truyền kỳ mạn lục, mỗi lần có chữ bạt (là vốn) đều dịch là nghĩ, vậy cứ viết dấu ngã (~) mới đúng! Còn “mắc” về chữ thì nhiều lắm. Bản của Kiều Oánh Mậu 1888 đời Thành Thái vì kỵ húy đã ghi “Gió hiu hiu thổi một vài bông lau”, nhưng các bản Kiều cổ đều ghi “Gió hiu hiu thổi một vài ngọn lau”.

Ngọn lau nghe không đẹp bằng bông lau nhưng mà đúng vì sinh vật học cho biết, hoa lau chỉ nở vào mùa Thu, tiết Thanh minh lau chưa nở hoa, mà chưa đến mùa hoa nở thì chỉ có ngọn lau thôi! Nguyễn Trung Ngạn viết: Lạ kỳ sắc ngạc tôn phong (Cờ lau phất trắng đất trời sang Thu), mấy trăm năm trước nhà thơ người Việt đã viết vậy, người chép sau cứ nghĩ “bông” đẹp hơn “ngọn” nên chép là “bông”.

Hay như một bản Kiều ghi “Mà lòng trưởng nghĩ khinh tài xiết bao” thì trong một chuyến điều tra điền dã, cụ Hoàng Xuân Hãn bất thình lình hỏi cụ TS Nghè Mai (1876 - 1954, hậu duệ của cụ Nguyễn Du), suy nghĩ một lúc cụ Nghè Mai đáp: “Trong dòng họ nhà tôi nói “trưởng nghĩa”, không nói “trọng nghĩa” để kỵ húy tên ông chú là Nguyễn Trọng! Có kỵ húy của triều đình và cũng có kỵ húy của dòng họ. Hậu duệ cụ Nguyễn Du nói thế không tin sao được. Gần đây anh Ngô Đức Thọ chuyên về kỵ húy đã nghiên cứu chữ “trọng” viết thừa nét.

Tất cả các bản Kiều đều nói “Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm”, chỉ duy nhất bản Duy Minh Thị in 1872 chép là thư họa, và đây là bản đúng. Vì thi họa với ca ngâm là lặp, trái lại pha nghề thư họa tức là pha nghề thư pháp, họa pháp nói Kiều cũng giỏi món này. Chứng cứ là, Hoạn Thư ghen tuông ghê gớm cũng phải thốt lên: “Khen rằng bút pháp đã tinh ...”. Cũng vì cách nói của người Nghệ, “viết thư” cũng gọi là “biên thơ”, mà từ “thư” đến “thơ” rồi từ “thơ” đến “thi” chỉ cách nhau gang tấc!

Cũng theo thầy Cẩn, trong Kim - Kiều tái hợp, cô Kiều bảo: “Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng/ Hoa thơm phong nhụy trăng vòng tròn gương”. Câu này đại ý là “tôi không còn trinh tiết nữa”, tôi là "hoa đời” rồi không còn “nụ đời” nữa, xin làm bạn với chàng thôi!

Cũng như đạo vua tôi, cha con, quân thần, anh em; nghiên cứu cho kỹ khi nói đạo vợ chồng là nói về đạo nghĩa. Ví như đối với chồng thì lễ phép, khi đưa chén trà thì tay nâng ngang mày, khi chồng đang theo học thì đêm đêm quay tơ để nuôi chồng... Đó là đạo vợ chồng.

Đạo không nói “chuyện ấy” của vợ chồng, cho dù cuộc sống có “chuyện ấy” mới nảy nở sinh sôi giống nòi, nhưng Nho giáo không đưa ”chuyện ấy” lên thành đạo. Cho nên cụ Nguyễn Du viết trong bản Duy Minh Thị: Nghĩ rằng trong sự vợ chồng. Nhiều khi đánh giá chữ “sự” cao hơn chữ “đạo” mặc dù thoạt nghe có vẻ kém hơn.

Lại nữa, “Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương”. Đó “sẵn” lại còn “kiếm” nghe có xuôi không? Xuân Diệu nói: Sẵn đây ta thắp một vài nén hương, nghe thì đúng, nhưng về mặt chữ Nôm thì “kiếm” và "thắp" khác xa nhau. Cụ Hoàng Xuân Hãn đề xuất sẵn đây ta “cắm” một vài nén hương.

Chữ “kiếm” và chữ “cắm” là gần nhau, đó là một ý kiến đáng suy nghĩ. Cá nhân cụ Hoàng Xuân Hàn đánh giá như vậy, cá nhân Nguyễn Tài Cẩn cũng đánh giá như vậy, liệu anh em đồng nghiệp đã đồng ý chưa? Thế nên phải tung vấn đề ra để cùng nhau thảo luận thì mới thống nhất được. Khoa học phải đoàn kết. Để thấy rằng việc nghiên cứu văn bản truyện Truyện Kiều là rất khó.