Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Thiếu cơ chế, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ khó chiếm thị phần

Khắc Kiên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Mong sớm ban hành Luật Công nghiệp hỗ trợ (CNHT), xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành CNHT, quy hoạch cụ thể từng vùng kinh tế 3 miền... nhằm tránh bỏ ngỏ thị phần. Đó là những đề xuất của Phó Chủ tịch Hiệp hội CNHT Việt Nam (VASI), Chủ tịch Hiệp hội ngành CNHT TP Hà Nội (HANSIBA) Nguyễn Hoàng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc VCCI Lần thứ VII (nhiệm kỳ 2021 - 2026).

Toàn cảnh Đại hội.

Báo động sự... len chân

Tại Đại hội lần thứ VII của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) lần này, cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam nói chung, ngành CNHT Việt Nam nói riêng đã góp phần quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, sớm đưa nước ta trở thành nước Công nghiệp - Tiên tiến - Hiện đại.

Hiện cộng đồng doanh nghiệp ngành CNHT có khoảng gần 500 doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân hộ gia đình tham gia sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Theo mục tiêu tại Nghị quyết 115/NQ-CP ngày 6/8/2020 về CNHT, đến năm 2025 Việt Nam sẽ có khoảng 1.000 doanh nghiệp CNHT và đến năm 2030 có khoảng 2.000 doanh nghiệp CNHT đáp ứng 70% nhu cầu cho sản xuất, trên thị trường nội địa chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp.

“Các doanh nghiệp CNHT Việt Nam đang hết sức cố gắng vươn lên để có thể chiếm lĩnh được thị phần rất tiềm năng, còn bỏ ngỏ này, hiện hàng năm nước ta đang nhập khẩu hàng ngàn linh phụ kiện các ngành công nghiệp lên tới hàng chục tỷ USD/năm” - ông Nguyễn Hoàng nói.

Do đó, để phát triển toàn diện kinh tế - xã hội đất nước trong giai đoạn tới. Cần cụ thể thông điệp hết sức cụ thể của Thủ tướng: “Thủ tướng và Chính phủ cùng Quốc hội đồng hành với doanh nghiệp, trên tinh thần 3 Không và 5 Thật” là “Không nói không, Không nói khó, Không nói có mà không làm”; 5 Thật là “Nghĩ thật, Nói thật, Làm thật, Hiệu quả thật, Nhân dân và Doanh nghiệp được thụ hưởng thành quả thật”.

Chủ tịch Hiệp hội ngành CNHT TP Hà Nội (HANSIBA) Nguyễn Hoàng đóng góp ý kiến tại Đại hội.

Việc triển khai hóa định hướng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển các lĩnh vực thuộc ngành CNHT là nhiệm vụ hết sức đúng đắn, chính xác và phù hợp với mong muốn của doanh nghiệp. Bởi chính sự thiếu hụt các ngành CNHT của doanh nghiệp chính là “thị phần bỏ ngỏ” đầy tiềm năng tại thị trường Việt Nam và từ đó có thể “len chân” vào thị phần chế biến - chế tạo CNHT của thế giới.

Theo số liệu ước tính tính hình sản xuất các sản phẩm CNHT của các doanh nghiệp Việt Nam thuộc các ngành như sau: Chế tạo ô tô nội địa hóa đạt khoảng 5 - 20%, Điện tử nội địa hóa đạt khoảng 5 - 10%; Da giầy nội địa hóa đạt khoảng 30%; Dệt may: Nội địa hóa đạt khoảng 30%; Công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao 1 - 2%; Cơ khí chế tạo khác nội địa hóa đạt khoảng 15 - 20%...

“Từ hạn chế về việc nội địa hóa các sản phẩm CNHT dẫn tới khối lượng linh phụ kiện nhập khẩu hàng năm về Việt Nam lắp ráp, chế tạo, sản xuất để xuất khẩu lên đến hàng chục tỷ USD (riêng sản phẩm linh kiện nhập khẩu thuộc ngành Điện tử và Ô tô vào khoảng 35 - 50 tỷ USD)” - ông Nguyễn Hoàng thông tin.

Đặc biệt, hiện chỉ có khoảng 0,2% trong tổng số gần 1 triệu doanh nghiệp Việt Nam đang tham gia vào sản xuất chế tạo trong ngành CNHT. Đây thực sự là con số đáng báo động khi so sánh với cộng đồng doanh nghiệp CNHT tại một số nước ngay trong khối ASEAN.

9 đề xuất cụ thể

Từ thực tế, ông Nguyễn Hoàng nhận định, việc chủ trương tập trung mọi nguồn lực để phát triển nhanh - mạnh ngành công nghiệp nói chung, CNHT Việt Nam nói riêng là định hướng vô cùng chính xác của Đảng - Nhà nước. Các cơ quan đã ban hành nhiều các văn bản quan trọng để thúc đẩy phát triển ngành CNHT...

Công nhân làm việc tại phân xưởng của Công ty TNHH Cơ khí chính xác Hà Nội CNC. Ảnh: Hoàng Anh
Trong nhiều nhiệm kỳ qua của Chính phủ, công đồng doanh nghiệp Việt Nam đã được tiếp nhận các chính sách hỗ trợ, sự chỉ đạo cụ thể. Tại nhiệm kỳ hiện nay 2021 - 2025, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng đã được Chính phủ - Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm và đã chỉ ra nhiều giải pháp hỗ trợ, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19 để sản xuất kinh doanh, phục hồi phát triển kinh tế trong giai đoạn tới.

Tuy nhiên, để phát triển ngành CNHT Việt Nam theo định hướng của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra, ông Nguyễn Hoàng đề xuất: Một là, sớm xây dựng Luật CNHT và trình Quốc hội và ban hành trong thời gian nhanh nhất nhiệm kỳ này.

Hai là, thành lập Ban chỉ đạo cấp Nhà nước do Phó Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban, với sự tham gia của một số bộ, ban ngành, một số tỉnh thành, đại diện doanh nghiệp CNHT, Hiệp hội CNHT để thống nhất chỉ đạo thúc đẩy giải quyết kịp thời các khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp CNHT.

Ba là, xây dựng kế hoạch, lộ trình cụ thể để phát triển các doanh nghiệp thuộc ngành CNHT, quyết tâm đến năm 2025 tầm nhìn 2030 đạt tỷ trọng 5 - 10% trên tổng số doanh nghiệp Việt Nam.

Bốn là, quy hoạch cụ thể từng vùng kinh tế (Bắc - Trung - Nam) để phát triển các ngành CNHT, tránh tình trạng “nhà nhà” phát triển - “Tỉnh tỉnh - Thành phố” phát triển CNHT để hạn chế tối đa lãng phí nguồn lực của đất nước và cạnh tranh không cần thiết. Phải làm rõ vùng nào sản xuất linh kiện cho ngành gì như ô tô - điện tử - công nghiệp đóng tàu - nông ngư nghiệp - da giầy - dệt may...

Năm là, cần có gói giải pháp cấp thiết, đặc thù về vốn (lãi suất và thời gian vay, hạn mức vay, tài sản thế chấp...) vì theo các quy định về điều kiện vay vốn (tài sản đảm bảo tiền vay, vốn đối ứng của Chủ đầu tư, lãi suất vay, thời gian vay...) vẫn còn trở ngại đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT. Đề nghị giao nhiệm vụ cho Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) là đơn vị đầu mối chủ đạo để tài trợ vốn ưu đãi cho các doanh nghiệp CNHT Việt Nam.

Sáu là, Nhà nước cần có quy hoạch và chính sách cụ thể để hỗ trợ hình thành một số khu công nghiệp chuyên sâu tại 3 miền Bắc - Trung - Nam, hỗ trợ đào tạo lao động chất lượng cao, hỗ trợ công nghệ khi nhập khẩu các thiết bị cũ đã qua sử dụng nhưng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và Việt Nam, chính sách thuế, đầu ra cho sản phẩm để trực tiếp dẫn dắt các doanh nghiệp CNHT tham gia sản xuất.

Bảy là, cho phép các doanh nghiệp tư nhân thuộc ngành CNHT và CNHT cho công nghệ cao được tiếp cận vay vốn ODA để đầu tư mua thiết bị, máy móc, công nghệ của nước ngoài (đặc biệt chú trọng vào Nhật Bản) để có khả năng sản xuất, liên kết tham giá chuỗi sản xuất của Nhật bản và toàn cầu.

Tám là, việc kết nối các doanh nghiệp tập đoàn lớn quốc tế đang có mặt tại Việt Nam là hết sức quan trọng, thúc đẩy và “kèm cặp” để các doanh nghiệp FDI này cũng đặt hàng. Hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất linh phụ kiện cấp cho họ để từ đó các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp len chân được vào chuỗi sản xuất CNHT.

Chín là, vấn đề khởi nghiệp đã được Thủ tướng chỉ đạo trong nhiều Hội nghị. Nhưng đối với ngành CNHT thì doanh nghiệp khởi nghiệp, khởi tạo là đặc biệt then chốt để phát triển. Cần có chính sách ưu đãi cụ thể khuyến khích các thanh niên Việt Nam đã học tập, làm việc tại các công ty, các quốc gia có nền CNHT phát triển để họ khởi nghiệp trở thành các doanh nhân - doanh nghiệp CNHT 100% Việt Nam.