Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

[Thông điệp từ lịch sử] Hoàng hậu Bạch Ngọc với sự nghiệp khai hoang lập làng và cứu nước

Vĩnh Khánh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Nghệ An (bao gồm Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) là “đất đứng chân” để nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống nhà Minh, giải phóng đất nước. Nhân dân Nghệ An đã đóng góp rất nhiều sức người sức của cho công cuộc kháng chiến. Trong đó, Hoàng hậu Bạch Ngọc có công lớn với cách là một cơ sở hậu cần cung cấp quân lương cho nghĩa quân.

Khai hoang lập làng
Hoàng hậu Bạch Ngọc tên là Trần Thị Ngọc Hào, con ông Trần Ngọc Thiện, quê làng Tri Bản, huyện Thổ Hoàng (nay xã Hòa Hải, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh). Bà là Hoàng hậu của vua Trần Duệ Tông (1372 - 1377) tên là Trần Kính (1337 - 1377), con thứ 11 của vua Trần Minh Tông và em vua Trần Nghệ Tông.

Vua Trần Duệ Tông được vua Trần Nghệ Tông nhường ngôi trong bối cảnh vương triều và đất nước đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Phương Bắc, nhà Minh bành trướng xuống. Phương Nam, Champa dưới Vương triều Chế Bồng Nga chủ trương thù địch, thường xuyên quấy phá biên giới, nhiều lần tấn công ra Nghệ An rồi tấn công tàn phá Thăng Long đến nỗi vua Nghệ Tông phải chạy lánh nạn. Trần Duệ Tông lên ngôi, rất muốn chấn chỉnh lại vương triều, củng cố quốc phòng và loại trừ mối họa từ phương Nam. "Duệ Tông mới được nhường ngôi, lưu tâm lo trị, chọn tướng rèn quân, mở khoa thủ sĩ, soạn bài để trâm, làm sách hoàng huấn, dường như cũng khá chịu làm" (Đại Việt thông giám Tổng luận). Cuối năm 1376, Duệ Tông huy động 12 vạn quân, thân chinh dẫn đại quân theo đường biển tiến đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn) nhưng bị Chế Bồng Nga vờ rút quân khỏi thành Đồ Bàn, trá hàng, dử vào bẫy phục kích. Quân nhà Trần đại bại. Duệ Tông bị tử trận.
 Chùa Am (Đức Thọ, Hà Tĩnh) - nơi Hoàng hậu Bạch Ngọc về ở ẩn.
Theo chính sử thì vua Trần Duệ Tông có một nguyên phi họ Lê, năm 1373 được lập làm Hoàng hậu tức Gia Từ Hoàng hậu. Bà này năm 1361 sinh con trưởng là Trần Hiện. Vua còn có một con trai tên là Vĩ, lên 14 tuổi thì chết và hai công chúa là Trang Huy vàTuyên Huy nhưng không rõ là con bà nào. Theo Phổ ký tại chùa Am (Diên Quang tự) tại Phụng Công (nay là xã Hòa Lạc, Đức Thọ) thì bà Trần Thị Ngọc Hào được tuyển vào cung (vợ ba), sinh ra Công chúa Huy Chân tên là Trần Thị Ngọc Hiên. Có thể bà được vào cung khi Duệ Tông đã lên ngôi (năm 1372) và sau đó được phong làm Hoàng hậu (hay được suy tôn Hoàng hậu).

Sau đời vua Trần Duệ Tông, Phế đế, nhà Trần ngày càng suy yếu và đến 1400 thì bị Hồ Quý Ly đoạt ngôi, lập ra nhà Hồ (1400 - 1407). Năm 1406, nhà Minh xâm lược Đại Việt. Nhà Hồ thất bại. Nhà Minh đặt ách đô hộ hết sức tàn bạo.

Trong bối cảnh đó, Hoàng hậu Bạch Ngọc phải rời kinh thành, lánh nạn về quê. Mẹ con bà cùng các gia thần Nguyễn Thời Kính, Trần Quốc Trung đem tôi tớ 572 người đi suốt 50 ngày, đến nơi thì chỉ còn 172 người... Bà cho dừng lại dọc dãy núi Cốc và núi Trà (thuộc Hương Khê, Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc ngày nay), chiêu mộ lưu dân được hơn 3.000 người, lập ra bốn xóm/điếm Lai Sơn, Ngũ Khê, Hằng Nga, Tùng Chinh và nhiều làng trải từ Lâm Thao, Hòa Duyệt, Thượng Bồng, Hạ Bồng (Vũ Quang ngày nay), Lạng Quang, Du Đồng, Đồng Công (Đức Thọ ngày nay), đến Thường Nga, Lai Thạch (Can Lộc ngày nay), tổ chức khai khẩn được 3.965 mẫu ruộng cho dân cày cấy làm ăn. Bà lại đem hai cung nữ là nàng Kỵ gả cho ông Kính, nàng Phạm gả cho ông Trung, và lấy tên hai cặp vợ chồng đặt cho hai xóm mới lập là Kính Kỵ và Trung Phạm. Đây là một cống hiến to lớn của Hoàng hậu Bạch Ngọc trong công cuộc khai phá vùng Tây Hà Tĩnh mà trung tâm là vùng thượng Đức Thọ. Về sau đây khu vực này vùng trung tâm của sở đồn điền Đức Quang do nhà Lê lập hồi cuối thế kỉ XV.

Góp sức kháng chiến

Từ năm 1407, cả nước phải chịu sự áp bức và đàn áp tàn bạo của nhà Minh. Cuộc đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta rất kiên cường và bền bỉ. Hà Tĩnh là địa bàn của cuộc kháng chiến do nhà Hậu Trần lãnh đạo và nhiều cuộc khởi nghĩa khác. Do vậy, trước năm 1413, nhà Minh chưa thể áp đặt được ách đô hộ như ở vùng Bắc bộ. Đó là cơ hội thuận lợi để Hoàng hậu Bạch Ngọc tiếp tục công cuộc khẩn hoang miền Tây Hà Tĩnh.

Từ năm 1413, sau khi đàn áp cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần, quân Minh củng cố chính quyền đô hộ trên đất phủ Nghệ An với nhiều chính sách bốc lột, đàn áp khắc nghiệt. Trên đất Hà Tĩnh, nhiều cuộc đấu tranh và khởi nghĩa bùng nổ. Tiêu biểu là khởi nghĩa của Nguyễn Biên, Phan Liêu - Nguyễn Đài, Nguyễn Tuấn Thiện.

Năm 1418, khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ. Năm 1424, Lê Lợi theo kế Nguyễn Chích, chuyển địa bàn chiến lược vào Nghệ An làm “đất đứng chân”. Năm 1425, nghĩa quân hạ thành Trà Lân (Con Cuông, Nghệ An), thắng trận Khả Lưu - Bồ Ải (Anh Sơn, Nghệ An) đồng thời tiến vào xây dựng căn cứ Đỗ Gia (Hương Sơn, Hà Tĩnh) mà trước đó tướng Đinh Liệt đã chiếm giữ. Đinh Liệt đóng quân ở núi Linh Cảm ở ngã ba sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố và La giang, án ngự đường thượng đạo lên Đỗ Gia, vào Đức Thọ, Hương Khê. Đại bản doanh nghĩa quân đóng ở động Tiên Hoa (Sơn Phúc, Hương Sơn hiện nay).

Khi tiến quân vào vùng này, tướng Bùi Bị đã phát hiện ra trang trại của Hoàng hậu Bạch Ngọc. Bùi Bị đưa Hoàng hậu Bạch Ngọc và Công chúa đến bái yết Lê Lợi. Hoàng hậu vui mừng đem toàn bộ trang trại và vùng đất khai phá hiến cho Bình Định Vương, trở thành một cơ sở hậu cần quan trọng của nghĩa quân. Hai cận thần Trần Quốc Trung, Nguyễn Thời Kính cùng nhiều trai tráng hăng hái gia nhập nghĩa quân. Bình Định Vương nhận Công chúa Huy Chân làm Cung phi.

Việc chuyển hướng tiến vào xây dựng “đất đứng chân” ở Nghệ An là một bước đột phá mang tính chiến lược, tạo thế và lực để cuộc khởi nghĩa phát triển lên quy mô cả nước thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Việc giải phóng huyện Đỗ Gia, lập đại bản doanh ở động Tiên Hoa là một thắng lợi quan trọng, đặt nền tảng vững chắc ở “đất đứng chân” cho cuộc khởi nghĩa. Chính vì vậy, việc cống hiến tài sản và trở thành cơ sở hậu cần cho nghĩa quân của Hoàng hậu Bạch Ngọc không chỉ là nghĩa cử yêu nước mà thực sự là đóng góp thiết thực và ý nghĩa quan trọng đối với cuộc khởi nghĩa.

Lập chùa chân tu

Đất nước được giải phóng, nhà Lê ra đời, Lê Lợi lên ngôi vua. Công chúa Huy Chân là thứ phi của Vua Lê Thái Tổ. Bà sinh ra Công chúa Trang Từ Lê Thị Ngọc Châu. Công chúa kết hôn với Bùi Ban là con của Bùi Bị.

Lúc này, Hoàng hậu Bạch Ngọc vẫn ở lại trang trại ở quê. Bà quy y đạo Phật và lập hai chùa: chùa Am (chùa Diên Quang, ở Phụng Công, nay xã Hòa Lạc, Đức Thọ) và chùa Tiên Lữ (ở Mỹ Xuyên, nay xã Đức Lập, Đức Thọ). Vua Lê Thái Tổ còn sai lập điện Phượng Hoàng (ở thôn Kính Kỵ, nay xã Đức Long, Đức Thọ), điện Ngũ Long (xã Đức Lạc, Đức Thọ) mà nay vẫn còn dấu vết.

Công chúa Huy Chân sau một thời gian sống trong cung ở kinh thành cũng xin về quê tu cùng mẹ tại chùa Am.

Công chúa Trang Từ sau khi chồng là Bùi Ban bị tử thương một thời gian, tái giá lấy Khôi quận công Trần Hồng, quê làng Đồng Lạc, Đức Thọ. Năm năm sau, bà cũng xuất gia, tu tại chùa Am cùng mẹ và bà.

Hoàng hậu Bạch Ngọc mất ngày 22 tháng 6 niên hiệu Hồng Đức (1470 -1497) đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Lăng mộ tại núi Phúc Sơn, thuộc làng Hòa Yên, tục gọi Núi Vua.

Công chúa Huy Chân mất ngày 22 tháng 3 niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497).

Công chúa Trang Từ mất ngày 5 tháng chạp niên hiệu Cảnh Thống (1498-1504) đời vua Lê Hiến Tông (1497 - 1504).

Hiện nay chùa Am và chùa Tiên Lữ vẫn còn, Hoàng hậu Bạch cùng con cháu vẫn được thờ ở đây. Ngày kỵ bà, 22 tháng Sáu hàng năm được lấy làm ngày Hội Chùa, khách thập phương về lễ Phật và tưởng nhớ Hoàng hậu cùng các công chúa Huy Chân, Trang Từ rất đông.

Từ trong cung triều nhung lụa, Hoàng hậu Bạch Ngọc và con cháu của mình đã bước trở về đồng ruộng một cách bình thản. Họ biết cống hiến đúng lúc và biết bước ra khỏi quyền lực và giàu sang đúng lúc. Kinh thành đã không níu được bước chân của họ về với bình an.
 Khi tiến quân vào vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, tướng Bùi Bị đã phát hiện ra trang trại của Hoàng hậu Bạch Ngọc. Bùi Bị đưa Hoàng hậu Bạch Ngọc và Công chúa đến bái yết Lê Lợi. Hoàng hậu vui mừng đem toàn bộ trang trại và vùng đất khai phá hiến cho Bình Định Vương, trở thành một cơ sở hậu cần quan trọng của nghĩa quân.