Chiều ngày 11/9, Sở Y tế TP Hồ Chí Minh thông tin về nguồn lây, mức độ gây bệnh và tình hình thuốc điều trị bệnh đau mắt đỏ đang xảy ra tại TP.
Theo đó, Sở Y tế dẫn ý kiến từ các chuyên gia của Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh và các tài liệu khoa học hiện nay trên thế giới.
Cụ thể, bệnh đau mắt đỏ (viêm kết mạc cấp) thường do các tác nhân vi rút gây ra (adenovirus, enterovirus, coxsackie…).
Bệnh lây truyền do tiếp xúc trực tiếp với nước mắt và các chất tiết của mắt có mang vi rút gây bệnh từ người bệnh. Việc cho rằng bệnh lây lan qua đường nước uống là không chính xác.
"…viêm kết mạc do enterovirus thường nhẹ hơn so với viêm kết mạc do adenovirus và thường ít có khả năng gây dịch lớn so với viêm kết mạc do adenovirus…" Sở Y tế nhấn mạnh đây cũng là thông tin thiếu cơ sở khoa học.
Về mức độ ảnh hưởng của enterovirus, Sở Y tế cho hay, tác nhân này gây ra viêm kết mạc mắt và vẫn có thể có bệnh nặng, nhưng thông thường là bệnh cấp tính, khác với tác nhân adenovirus có thể gây ra viêm giác mạc mãn tính.
Enterovirus được ghi nhận đã gây ra những đợt dịch viêm kết mạc tại nhiều nước trên thế giới. Theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới công bố năm 1973, enterovirus type 70 đã gây đại dịch tại các nước châu Phi, châu Á và Vương quốc Anh trong giai đoạn 1969 - 1971.
Năm 2014, nhóm vi rút này cũng gây viêm kết mạc mắt xuất huyết tại Thái Lan với hơn 300.000 trường hợp nhiễm trong vòng 3 tháng.
Về thuốc nhỏ mắt sử dụng trong bệnh đau mắt đỏ, người mắc bệnh có thể dùng nước muối sinh lý (natri clorua 0,9%) hoặc nước cất để rửa mắt. Các loại thuốc nhỏ mắt có chứa kháng sinh được bác sĩ chỉ định trong các trường hợp sau: Có dấu hiệu nghi bội nhiễm vi khuẩn (đau nhức, giảm thị lực, sợ ánh sáng...), phòng ngừa nhiễm trùng sau bóc giác mạc.
Cũng theo Sở Y tế, hiện nay, trên thị trường có nhiều loại thuốc nhỏ mắt có chứa kháng sinh chứ không phải chỉ có một loại "Tobrex" như có cơ quan báo chí phản ánh. Các thuốc nhỏ mắt có chứa kháng sinh hiện có nhiều loại khác nhau, đều có thể sử dụng cho bệnh đau mắt đỏ, như Ofloxacin, Levofloxacin, Ciprofloxacin, Neomycin, Tobramycin…
Hiện nay, nguồn thuốc nhỏ mắt có chứa kháng sinh trên thị trường là rất lớn và không thể xảy ra tình trạng khan hiếm thuốc. Theo khảo sát nhanh của Phòng Nghiệp vụ Dược - Sở Y tế, thuốc nhỏ mắt có chứa kháng sinh Levofloxacin hiện có hơn 270.000 lọ, Ofloxacin còn 15.000 lọ (sẽ nhập về thêm trong thời gian tới là 900.000 lọ); Tobramycin còn 20.000 lọ (sẽ nhập về thêm trong thời gian tới là 280.000 lọ),…
Điều quan trọng là, theo khuyến cáo của các bác sĩ chuyên khoa Mắt, người mắc bệnh đau mắt đỏ tuyệt đối không tự ý sử dụng các thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid. Việc tự ý sử dụng thuốc nhỏ mắt có chứa corticoid không những không có tác dụng mà còn làm tổn thương nặng hơn, kéo dài thời gian bệnh và tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Trước đó, khi tình hình số mắc bệnh đau mắt đỏ có dấu hiệu tăng trên địa bàn TP, Sở Y tế đã phối hợp Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU) thực hiện nghiên cứu để tìm và xác định chính xác tác nhân gây bệnh đau mắt đỏ. Bên cạnh đó, Sở Y tế đã có văn bản gửi Sở GD&ĐT để chủ động tăng cường phát hiện, hướng dẫn học sinh, phụ huynh học sinh cách phát hiện và phòng bệnh đau mắt đỏ.
Khuyến cáo từ các chuyên gia mắt và Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP Hồ Chí Minh (HCDC) cho rằng, biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả nhất để phòng chống lây lan bệnh đau mắt đỏ do vi rút (thường gặp là vi rút Adeno), gồm:
Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, sử dụng nước sạch.
Không đưa tay lên sờ lên mắt, mũi, miệng.
Không dùng chung vật dụng cá nhân như: lọ thuốc nhỏ mắt, khăn mặt, kính mắt, khẩu trang…
Vệ sinh mắt, mũi, họng hằng ngày bằng nước muối sinh lý, các thuốc nhỏ mắt, nhỏ mũi thông thường.
Sử dụng xà phòng hoặc các chất sát khuẩn thông thường để sát trùng các đồ dùng, vật dụng của người bệnh.
Hạn chế tiếp xúc với người bệnh mắc hoặc nghi mắc bệnh đau mắt đỏ.
Người bệnh, người nghi bị bệnh đau mắt đỏ cần hạn chế tiếp xúc với người khác.
Người có các dấu hiệu đau mắt đỏ cần đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn, điều trị kịp thời, không tự ý điều trị khi chưa có hướng dẫn của cán bộ y tế để tránh biến chứng nặng.