Kinhtedothi -
Nguyễn Minh Hương (Huyện Đan Phượng, Hà Nội)
Trả lời: Căn cứ Khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 quy định về thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất như sau: “Trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền khi có Giấy chứng nhận (sổ đỏ)”. Do đó, nếu thửa đất trên đó có nhà đã có sổ đỏ thì đó là di sản thừa kế. Theo quy định tại khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”. Khoản 2 Điều 685 Bộ luật Dân sự quy định việc phân chia di sản theo pháp luật: “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia”. Thủ tục công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản được quy định tại Điều 57 Luật Công chứng năm 2014: “Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản đã được công chứng là một trong các căn cứ để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký việc chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người được hưởng di sản”. Các cô cậu và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất tiến hành khai nhận thừa kế. Sau đó tiến hành thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, tất cả các đồng thừa kế cùng ký nhận và thỏa thuận về phần di sản phân chia cho từng người. Ở đây, phải có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế để thỏa thuận chia di sản. Nếu hàng thừa kế không thỏa thuận được thì có thể khởi kiện chia thừa kế tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết.