Kinhtedothi - Nhìn lại chặng đường 30 năm Đổi mới, chúng ta thực sự tự hào vì những thành tựu đã đạt được, nhưng cũng thấy rõ hơn những khiếm khuyết mà nền kinh tế nước ta đang gặp phải. Vậy đâu là những giải pháp để thúc đẩy nền kinh tế tiếp tục phát triển mạnh, chặn đà tụt hậu và từng bước rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp các nước phát triển? Đó là câu hỏi mà chúng tôi đã đặt ra với nhiều chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam.
Những bước tiến ngoạn mục
Nhìn lại cả chặng đường 30 năm Đổi mới, có thể nói thành tựu phát triển kinh tế của nước ta là hết sức ấn tượng. Tính chung cho giai đoạn 1990 - 2010, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt bình quân 7,3% (theo báo cáo của IMF năm 2011), chỉ thấp hơn mức tăng trưởng của Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm giai đoạn 1986 - 1990 là 4,4%; giai đoạn 1991 - 1995 là 8,2%; giai đoạn 1997 - 1999 là 7%; giai đoạn 2000 - 2005 là 7,51%; giai đoạn 2006 - 2010 là 6,7%; và giai đoạn 2011 - 2015 là 5,67%. Với tốc độ tăng trưởng này, từ nước có thu nhập bình quân đầu người rất thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm các nước có thu nhập trung bình trên thế giới năm 2010 (với bình quân GDP theo đầu người đạt trên 1.000 USD).

Điểm nổi bật trong thành tựu tăng trưởng của Việt Nam không chỉ nằm ở tốc độ tăng trưởng cao, mà cả ở tính bao trùm. Tỷ lệ nghèo từ mức trên 85% dân số (theo chuẩn nghèo 2 USD/người, ngày) của năm 1993 giảm xuống còn khoảng 13% năm 2013. Tình trạng nghèo cùng cực (theo chuẩn 1,25 USD/ngày) gần như biến mất, trong khi bất bình đẳng tăng không đáng kể và vẫn nằm trong mức trung bình của thế giới. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP giảm nhanh, từ 47% năm 1988 còn 18 - 20% từ năm 2000 đến nay. Ngược lại, tỷ trọng công nghiệp tăng từ khoảng 23% vào cuối những năm 1980 lên gần 40% hiện nay. Tỷ trọng khu vực dịch vụ cũng tăng lên, nhưng mức tăng nhỏ và đóng góp của khu vực này trong cơ cấu GDP khá ổn định.
Chính sách mở cửa hội nhập quốc tế cũng đạt được những thành tích rất đáng tự hào: Nếu trước Đổi mới, Việt Nam đã có quan hệ ngoại thương với nhiều nước trên thế giới, nhưng chủ yếu là với khối XHCN. Năm 1986, chúng ta bắt đầu mở cửa ra với cả thế giới. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 khơi nguồn cho dòng vốn đầu tư và thương mại quốc tế. Năm 1993, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với 3 định chế tài chính quốc tế lớn là Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Phát triển châu Á. Năm 1994, Việt Nam thoát khỏi cấm vận, bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ. Năm 1995, Việt Nam gia nhập ASEAN. Năm 1997, Việt Nam tham gia APEC. Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ (ký tháng 7/2000, có hiệu lực từ tháng 12/2001) là bước tiến tiếp theo trong tiến trình hội nhập. Năm 2007, nền kinh tế tiến một bước lớn trong tiến trình hội nhập quốc tế khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Cuối năm 2014, Việt Nam hoàn thành đàm phán Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc, với Liên minh Hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan. Năm 2015, Việt Nam kết thúc đàm phán TPP và Hiệp định thương mại tự do với EU.
Hội nhập quốc tế mang lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế của Việt Nam, trước hết là ở việc giải phóng các nguồn lực và hình thành tư duy phát triển kinh tế mới. Đặc biệt, đã có đột biến về “mở cửa” kinh tế: Xuất khẩu năm 2014 lên tới 150 tỷ USD. Việc huy động vốn đầu tư, phần vốn bên ngoài cũng chiếm đến 1/3, bao gồm cả vốn ODA (đã huy động 80 tỷ USD) và FDI (đã huy động 150 tỷ USD). Dự trữ ngoại tệ cũng được tăng cường đạt gần 40 tỷ USD.
Tăng trưởng GDP, tỷ lệ nghèo và hệ số Gini của Việt Nam (1986 - 2013)
|
Giải pháp nào cho tăng trưởng?
TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng: “Mặc dù có những thành tựu đáng tự hào và đáng ngưỡng mộ trong suốt 3 thập kỷ vừa qua, Việt Nam vẫn đang bị các nước phát triển hơn, đặt biệt là Trung Quốc bỏ lại phía sau và ngày càng nới rộng khoảng cách. Việt Nam cũng đang bị bỏ lại phía sau các bảng xếp hạng toàn cầu trong phần lớn các tiêu chí phát triển”. Năm 1990, khoảng cách Việt Nam so với trung bình thế giới khoảng 4.000USD, thì sau hơn 20 năm, khi GDP bình quân của Việt Nam đạt 2.000USD thì GDP bình quân thế giới đã vượt 10.000 USD, khoảng cách phát triển đã lên gấp 2 lần. Về giáo dục: Theo chỉ số Human Development, Việt Nam đứng hàng 121/187, có nghĩa là dưới trung bình. Về y tế: Theo chỉ số y tế, sức khỏe, Việt Nam đứng hàng 160 trên 190 quốc gia, có nghĩaViệt Nam đứng trong nhóm quốc gia có tổ chức y tế tệ nhất. Trong khi đó, theo chỉ số tham nhũng mới nhất của tổ chức Transparency International, Việt Nam đứng hàng 116/177 có nghĩa là thuộc 1/4 quốc gia cuối bảng.
Vậy đâu là lối thoát cho nên kinh tế Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này chúng tôi đã trao đổi với nhiều chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên lý giải: “Vị thế của Việt Nam chỉ có thể do chính Việt Nam tạo dựng và duy trì. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đặt trong nền tảng nền kinh tế với giáo dục kỹ năng chuyên sâu, chất lượng thể chế, cơ sở vật chất hạ tầng vượt trội và môi trường kinh tế vĩ mô ổn định nên được coi là quan điểm phát triển trong bối cảnh Việt Nam đang cam kết tham gia những cuộc chơi hội nhập đẳng cấp cao”. Trong khi đó, TS Lưu Bích Hồ - nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược (Bộ KH&ĐT) lại đưa ra một lộ trình rất cụ thể. Lộ trình được chia thành hai giai đoạn.
Giai đoạn 2016 - 2025, khởi động, xây dựng bốn trụ cột của kinh tế tri thức; hội nhập có hiệu quả vào kinh tế tri thức toàn cầu hóa; tiếp thu làm chủ công nghệ từ ngoài; phát triển nhanh các ngành công nghiệp công nghệ cao và đổi mới mạnh các ngành công nghiệp truyền thống; đẩy nhanh tái cơ cấu và hiện đại hóa nông nghiệp; phát triển mạnh dịch vụ chất lượng cao; phát triển các trung tâm outsourcing; nâng cao năng lực R&D và đổi mới sáng tạo để cuối kỳ có thể bắt đầu chuyển sang phát triển bằng năng lực công nghệ sáng tạo từ trong nước.
Giai đoạn 2025 - 2035/2040, tăng tốc để trở thành nền kinh tế tri thức, tiếp cận nước công nghiệp phát triển, thu nhập cao, chuyển từ tiếp thu tri thức nước ngoài để nâng cao năng lực công nghệ trong nước sang phát triển công nghệ sáng tạo của Việt Nam cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các giải pháp chính: Trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức, coi kinh tế tri thức, đổi mới sáng tạo là con đường, phương thức, động lực phát triển chủ yếu; đổi mới thể chế, tạo khung khổ cần thiết cho phát triển kinh tế tri thức, hoàn thiện môi trường kinh doanh, phát triển khu vực tư nhân và thúc đẩy hợp tác công - tư; mở cửa hội nhập quốc tế sâu rộng giai đoạn mới; tạo mọi điều kiện đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn hiện đại; xây dựng các “khu động lực kinh tế sáng tạo”; quản lý tốt sự phát triển tri thức và kinh tế tri thức theo đúng tính chất và yêu cầu của lĩnh vực này mà quan trọng nhất là dân chủ hóa, tự do hóa, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện đổi mới sáng tạo. Phấn đấu quyết liệt theo hướng và con đường này, có thể dự báo đến khoảng giữa thế kỷ, nước ta sẽ vượt qua bẫy thu nhập trung bình và trở thành một nước công nghiệp phát triển như các nước trong OECD ngày nay.
Như vậy, khái quát lại, con đường và mô hình phát triển của nước ta trong 30 - 40 năm tới, theo nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan, là: “Hiện đại hóa, tiến cùng thời đại trên nền tảng kinh tế thị trường đầy đủ hiện đại và hội nhập quốc tế giai đoạn mới; thực hành dân chủ đích thực rộng rãi; phát triển kinh tế tri thức mà trung tâm là hệ thống đổi mới sáng tạo; thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó cũng là một bước tiến lớn trên con đường đi tới xã hội tương lai - CNXH theo quan niệm mới”.