Tìm cát phục vụ các dự án cao tốc ở Đồng bằng sông Cửu Long

Theo VietnamPlus
Chia sẻ Zalo

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Quý Kiên khẳng định trữ lượng cát ở Đồng bằng sông Cửu Long nếu khai thác, điều phối một cách hợp lý thì hoàn toàn có thể cung cấp đủ cho các dự án cao tốc.

Một đoạn cao tốc Cần Thơ-Cà Mau đoạn qua địa bàn Cần Thơ đang được thi công. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)
Một đoạn cao tốc Cần Thơ-Cà Mau đoạn qua địa bàn Cần Thơ đang được thi công. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trữ lượng vật liệu đắp nền ở Đồng bằng sông Cửu Long không thiếu nếu có sự điều phối hợp lý.

Một số tỉnh được đánh giá có trữ lượng thấp hoặc không cấp phép khai thác mỏ mới trong nhiều năm như Sóc Trăng, Tiền Giang đã chủ động khảo sát, đánh giá trữ lượng vật liệu san lấp để phục vụ dự án cao tốc đi qua địa bàn.

“Vì nguyên nhân gì mà vật liệu bây giờ lại khó khăn như thế? Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem lại có biến động gì về tài nguyên không,” Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đặt câu hỏi khi làm việc với các địa phương về triển khai các dự án cao tốc ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày 5/9 tại Cần Thơ.

Trả lời câu hỏi của Phó Thủ tướng, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Quý Kiên khẳng định trữ lượng cát ở Đồng bằng sông Cửu Long nếu khai thác, điều phối một cách hợp lý thì hoàn toàn có thể cung cấp đủ cho tiến độ các dự án cao tốc.

Với 60 dự án khai thác cát đã cấp phép thì tổng trữ lượng cát là khoảng 80 triệu m3; trong đó, có 63 triệu m3 cát san lấp và 17 triệu m3 cát xây dựng. Thời gian qua, các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng đã cấp tiếp 30 giấy phép thăm dò với trữ lượng dự kiến 39 triệu m3 cát san lấp và 3 triệu m3 cát xây dựng.

Tổng cộng có khoảng 120 triệu m3 cát (gồm 20 triệu m3 cát xây dựng và khoảng 100 triệu m3 cát san lấp) trong khi nhu cầu của 4 dự án cao tốc đang triển khai là 53,68 triệu m3.

Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết nhu cầu là vậy nhưng không phải khai thác tập trung một lúc tất cả khối lượng cát trên mà rải ra 4 năm, năm 2024 cần nhiều hơn, năm 2025 giảm dần và kết thúc vào năm 2026.

“Các dòng sông ở Đồng bằng sông Cửu Long được bồi lắng qua nhiều năm, ở độ sâu rất sâu vẫn còn rất nhiều cát, cát rất sạch. Tuy nhiên, thời gian vừa qua chỉ khuyến cáo khai thác ở mức độ nhất định để đảm bảo an toàn cho dòng chảy,” ông Kiên nói và cho biết lượng cát này có thể khai thác để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế-xã hội.

Thứ trưởng Trần Quý Kiên cũng nói thêm rằng hiện các mỏ cát đều được khai thác đạt sản lượng cao hơn trữ lượng đã phê duyệt, trong quá trình này vẫn có bồi lắng tự nhiên nhất định.

Quang cảnh buổi làm việc của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà với các địa phương về triển khai các dự án cao tốc ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày 5/9 tại Cần Thơ. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)
Quang cảnh buổi làm việc của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà với các địa phương về triển khai các dự án cao tốc ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày 5/9 tại Cần Thơ. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)

Bên cạnh đó, ông Kiên cho biết như tỉnh Sóc Trăng lúc đầu dự kiến chỉ đáp ứng được 12-13 triệu m3 cát nhưng mới đây Hội đồng Nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết về việc quyết định biện pháp quản lý, sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho dự án thành phần 4 thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng giai đoạn 1.

Đây là cơ sở để tỉnh Sóc Trăng lập thủ tục để khai thác 7 mỏ cát thuộc hạ lưu sông Hậu vào phục vụ thi công dự án cao tốc Châu Đốc-Cần Thơ-Sóc Trăng; trong đó có 2 mỏ gia hạn và 5 mỏ đang khảo sát đánh giá trữ lượng, chất lượng.

Dự kiến tổng trữ lượng 7 mỏ cát này khoảng 18 triệu m3 cát và 1/3 trong số cát này (tương đương 6 triệu m3) có thể làm cát xây dựng được.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhận định vật liệu cát đang là vấn đề khó, do đó cần tiên liệu các rủi ro nếu khai thác cát sông quá mức. Ví dụ nhu cầu là 100 triệu m3 cát là đủ nhưng nếu tập trung khai thác một lúc thì sẽ không có.

Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Giao thông Vận tải, các nhà thầu rà soát lại tiến độ cung cấp cát cho các dự án thật chắc chắn, gửi cho Bộ Tài nguyên và Môi trường để điều phối, phân bổ nguồn vật liệu.

Theo Phó Thủ tướng, hiện nay cát đang khai thác nhiều hơn 50%, sau một thời gian nữa 50% này sẽ bắt đầu sụt lún, bắt buộc phải dừng khai thác. "Không hút mãi cát dưới sông được, hút dưới sông bao nhiêu thì đất liền sẽ sụt xuống bấy nhiêu, đó là quy luật cân bằng. Chúng ta nâng công suất nhưng phải lấy vấn đề môi trường và giám sát vấn đề sạt lở là ưu tiên đầu tiên. Các địa phương, nhà thầu khai thác cũng phải lấy vấn đề xử lý môi trường, chống sạt lở làm ưu tiên,” Phó Thủ tướng nói.

Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp từ các địa phương cho thấy, từ năm 2016 đến nay, các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã xuất hiện tổng số 779 điểm sạt lở với tổng chiều dài 1.134km. Cụ thể, bờ sông 666 điểm/744km; bờ biển 113 điểm/390km.

Ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập về sinh thái Đồng bằng sông Cửu Long nhận định, sự thiếu hụt bùn, cát tức là thiếu hụt chính nguồn vật liệu bồi đắp tạo nên đồng bằng này là nguyên nhân chính của tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển tràn lan ở Đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Tất cả các yếu tố khác đều là phụ, cục bộ từng nơi, không phải là nguyên nhân phổ quát.

Trong 6.000 năm bồi đắp, Đồng bằng sông Cửu Long luôn nở ra và tiến về phía biển Đông trung bình 16 m/năm, về hướng Mũi Cà Mau 26 m/năm.

"Đến đầu thập niên 1990, khi các đập thủy điện xuất hiện trên lưu vực Mekong, thì lượng bùn cát về Đồng bằng sông Cửu Long bắt đầu giảm và sạt lở gia tăng. Năm 2005, có thể xem là điểm cân bằng khi sạt lở đuổi kịp bồi đắp. Càng về sau càng có nhiều đập thủy điện và hoạt động khai thác cát diễn ra rầm rộ ở tất cả các quốc gia trên suốt chiều dài sông Mekong thì lượng bùn cát suy giảm nghiêm trọng làm cho sạt lở ngày càng tăng tốc dữ dội," ông Nguyễn Hữu Thiện thông tin.

Trong khi đó, nghiên cứu của dự án Quản lý cát bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long thuộc Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) tại Việt Nam vào cuối năm 2022 cho thấy, hiện nay, khối lượng cát đổ về Đồng bằng sông Cửu Long từ 6,18-7 triệu tấn/năm và khoảng 6,5 triệu tấn cát đổ ra Biển Đông. Trong khi đó, lượng cát được khai thác từ các con sông ở khu vực này là từ 28-40 triệu tấn/năm.

Ông Hà Huy Anh, Quản lý dự án của WWF cho biết điều này có nghĩa, mỗi năm, Đồng bằng sông Cửu Long đang bị thâm hụt một lượng cát từ 27,5-39,5 triệu tấn. Việc khai thác cát không bền vững đang tác động không nhỏ đến hình thái của hai dòng sông chính ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là sông Tiền và sông Hậu.

Việc khai thác cát quá mức từ lâu đã được các chuyên gia, nhà khoa học xác định là một trong những nguyên nhân chính gây nên sạt lở bờ sông ở Đồng bằng sông Cửu Long. Thế nhưng, vì mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, cát vẫn cần được khai thác để xây dựng các công trình; trong đó, có các dự án cao tốc đang triển khai của vùng. Vậy có giải pháp nào có thể thay thế cho cát sông khi nguồn tài nguyên hữu hạn này ngày càng ít đi? Câu trả lời đó là sử dụng cát biển.

Bộ Giao thông Vận tải đã phê duyệt đề cương về việc lấy mẫu cát ngoài biển để thẩm tra chỉ tiêu cơ lý so với đất đắp nền đường. Qua kiểm tra, mẫu cát đạt chỉ tiêu về mặt cơ lý. Còn về hoá học, đã kiểm tra hàm lượng độ mặn và khi đưa vào công trường, lắp đặt các mẫu để lấy quan trắc nước ngầm, nước mặt trong quá trình thi công.

Đến nay đã tiến hành lấy mẫu 3 lần, kết quả tương đồng với cát sông. Hiện nay, Bộ Giao thông Vận tải đang yêu cầu tiếp tục quan trắc về môi trường từ đây đến cuối năm, phải thực hiện hàng tháng để xem kết quả.

Ông Trần Văn Thi, Giám đốc Ban Quản lý Dự án Mỹ Thuận cho biết hiện đơn vị đã hoàn tất việc thí điểm sử dụng cát biển để đắp nền đường tại đoạn hoàn trả tuyến đường tỉnh 978 thuộc dự án Hậu Giang-Cà Mau, đã hoàn thành hết lớp đắp bằng cát biển K95, K98, đang thi công lớp đá dăm láng nhựa. Dự kiến, đến tháng 12/2023 sẽ hoàn thành lớp mặt và có thể thông tuyến.

Đánh giá bước đầu, vật liệu đầu vào dùng đắp mẫu cát biển sử dụng cho đoạn thí điểm đảm bảo các yêu cầu đối với vật liệu đắp nền về hàm lượng muối hòa tan và chỉ số sức chịu tải theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 9436:2012 Nền đường ôtô-Thi công và nghiệm thu (tổng lượng muối hòa tan dưới 5%).

Chất lượng môi trường nền (nước mặt, nước ngầm và đất) trước và trong khi thi công cho thấy, chưa có bằng chứng về việc thi công đắp cát biển làm tăng độ mặn và hàm lượng Clorua trong nước mặt và nước ngầm. Việc thi công cũng không ảnh hưởng đến chất lượng đất.

Tại khu vực thí điểm, có thể đánh giá sơ bộ cát biển khu vực tỉnh Sóc Trăng có thể thay thế cát sông làm vật liệu đắp nền đường, các tính chất vật liệu của cát biển sử dụng đắp nền đường tương tự như cát sông. Việc sử dụng cát biển đắp nền đường cũng không có tác động lớn về chất lượng môi trường xung quanh, độ mặn của nước mặt và nước ngầm trước vào sau khi thi công chưa thể hiện rõ ràng.

Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà yêu cầu các đơn vị liên quan tập trung nghiên cứu, sớm đưa cát biển vào sử dụng trong những dự án tương tự. Theo Phó Thủ tướng, giải pháp cát biển tập trung vào ba tiêu chí: cơ lý, môi trường và kinh tế. Nếu trọn vẹn được dùng phương án này thay cho mỏ cát ở trên sông, nhằm tránh các nguy cơ đối với môi trường, sạt lở bờ sông.