Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Tìm giải pháp đột phá tạo động lực tăng trưởng

Ngọc Trâm
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Trao đổi với phóng viên Báo Kinh tế & Đô thị, TS Cấn Văn Lực cho rằng, trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 đạt 6% cũng đã là thành tích.

Lựa chọn đòi hỏi nỗ lực lớn

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu lựa chọn kịch bản 3, tăng trưởng 6% để “tiếp tục phấn đấu đạt kết quả cao nhất có thể cho năm 2023”, ông nghĩ sao về con số tăng trưởng này?

- Đây là một lựa chọn khó khăn khi Việt Nam đang gặp những thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế. Mặc dù tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước nhưng tăng trưởng GDP 9 tháng năm 2023 đạt 4,24%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2023 (tăng 6,3%).

TS Cấn Văn Lực
TS Cấn Văn Lực

Xuất khẩu phụ thuộc vào thị trường thế giới. Năm nay thị trường thế giới bị thu hẹp, các đơn hàng bị cắt giảm, lao động việc làm giảm và xuất khẩu giảm. Đầu ra giảm thì giảm nhập nguyên liệu đầu vào...

9 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ 8,2%. Thậm chí, nếu tính theo tháng thì tháng 9/2023, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 31,41 tỷ USD, giảm 4,1% so với tháng trước.

Một thông tin tích cực là sản xuất công nghiệp đã được cải thiện hơn. 9 tháng, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp tăng 1,65% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,98%. Tuy vậy, mức tăng này vẫn còn thấp.

Trong khi đó, do kinh tế khó khăn, thị trường trong nước chưa được thúc đẩy phát triển hiệu quả. Tiêu dùng phục hồi chậm, tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục ở mức cao.

Trong bối cảnh thế giới như hiện nay, nếu đạt được kết quả này thì cũng là thành tích, nỗ lực cố gắng rất lớn của nước ta. Hiện tình hình kinh tế thế giới đang trong bối cảnh sụt giảm toàn cầu, lạm phát cao. Xu hướng tiếp tục thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia nhằm kiềm chế lạm phát; rủi ro gián đoạn trong chuỗi giá trị toàn cầu…

Mới đây, các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng của Việt Nam vẫn ở mức cao trong khu vực nhưng sẽ thấp hơn hay nói đúng hơn là hạ tăng trưởng so với các dự báo trước đó, ông nhìn nhận vấn đề này thế nào?

- Dù những kỳ vọng về sự phục hồi của nền kinh tế đang ngày càng lớn dần, song thực tế, khó khăn, thách thức ở phía trước vẫn còn rất lớn. Đó là một trong những lý do khiến các tổ chức, các chuyên gia kinh tế cả trong và ngoài nước còn khá dè dặt khi dự báo về tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2023, cũng như 2024.

Tình hình kinh tế thế giới đang trong bối cảnh sụt giảm toàn cầu, lạm phát cao. Trong khi lạm phát của Việt Nam thấp. Đó là thành công rất lớn của nước ta.

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn tăng trưởng khá; các cân đối lớn được bảo đảm, lãi suất giảm dần, tỷ giá tăng nhưng vẫn trong tầm kiểm soát; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, đạt nhiều kết quả tích cực, vị thế và uy tín của Việt Nam tiếp tục được nâng cao…

Một số yếu tố vĩ mô của thế giới vẫn bất ổn, thị trường chưa hồi phục mà chúng ta vẫn giữ được sự ổn định như vậy là một thành công lớn.

Kích thích tổng cầu và hỗ trợ doanh nghiệp

Ông nghĩ sao về 3 trụ cột tăng trưởng (đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng) mà Chính phủ thúc đẩy? Đây có phải là thời điểm các cơ quan điều hành nên đẩy mạnh các chính sách kích thích tổng cầu không, thưa ông?

- Từ đầu năm đến nay, Chính phủ vẫn thực hiện các chính sách tác động đồng thời vào 3 yếu tố đó. Nhưng chúng ta đã hội nhập kinh tế tương đối cao nên tác động của thị trường đến 3 yếu tố này cũng ở mức độ khác nhau.

Các động lực đầu tư (đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, đầu tư công, DN Nhà nước), tiêu dùng, du lịch và xuất khẩu tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ; các vấn đề nội tại cần tiếp tục được tập trung tháo gỡ, chuyển biến tích cực hơn, nhất là vướng mắc của DN, dự án đầu tư, thị trường bất động sản, trái phiếu DN…

Thực tế, tiêu dùng bị ảnh hưởng chung trong bối cảnh tiêu dùng toàn cầu suy giảm do sau dịch Covid-19 thu nhập, đời sống, việc làm suy giảm nên tiêu dùng giảm. Khi đời sống khó khăn, người dân tích lũy, tiết kiệm, và hạn chế tiêu dùng.

Kích thích tổng cầu là một trong những giải pháp giúp cho các đơn hàng của DN tăng trở lại. Nếu cầu xuất khẩu thấp thì chúng ta nên quay trở lại kích thích tiêu dùng nội địa. Hiện, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã và đang thực hiện nhiều giải pháp như giảm thuế giá trị gia tăng, giảm lệ phí trước bạ...

Cầu đầu tư cũng sẽ được hỗ trợ lớn từ đầu tư công, đang được triển khai ráo riết theo cam kết của Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền địa phương. Đầu tư công sẽ là đòn bẩy cho các luồng đầu tư ngoài Nhà nước và đầu tư FDI.

Du lịch, ngành kinh tế có tác động lan tỏa lớn tới nhiều ngành dịch vụ thị trường như vận tải, lưu trú ăn uống, lữ hành, vui chơi giải trí... là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm. Đặc biệt là thu hút khách du lịch quốc tế.

Từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã đón khoảng 9 triệu lượt khách du lịch quốc tế, gấp 4,7 lần cùng kỳ năm trước. Từ nay đến cuối năm, mỗi tháng chỉ cần đón thêm khoảng một triệu lượt khách du lịch quốc tế, thì năm nay, chúng ta đạt 150% mục tiêu đặt ra.

Chỉ còn một quý cuối cùng để nỗ lực, làm sao đạt mức tăng trưởng 6% trong năm 2023 là bài toán đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn của cả nền kinh tế. Ông đánh giá sao về các giải pháp hỗ trợ người dân, DN của Chính phủ?

- Đây là thời điểm dồn lực để thúc đẩy tăng trưởng. Chính phủ đang thực hiện nhiều giải pháp đó là chính sách giảm thuế, phí; gia hạn thuế, tiền thuế đất; giảm mặt bằng lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng, hỗ trợ sản xuất, kinh doanh không chỉ kích cầu sản xuất, đầu tư, mà còn kích cầu tiêu dùng, qua đó tác động trở lại đối với hoạt động sản xuất, đầu tư, kinh doanh.

Bên cạnh đó, muốn tăng xuất khẩu cần tăng cường thu hút đầu tư FDI, cải thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA), chính sách hỗ trợ thu hút đầu tư và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.

Thực hiện có hiệu quả các chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa; vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.

Tiếp tục cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn cho DN. Tháo gỡ các vướng mắc, rào cản lớn đối với DN hiện nay, nhất là về pháp lý, thị trường đầu ra, tiếp cận vốn (đặc biệt là khả năng tiếp cận và năng lực hấp thụ vốn) và lao động.

Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế đã được thực tế và khoa học chứng minh có tác động tích cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đóng góp khoảng 0,05 - 0,27% mỗi năm vào tăng trưởng GDP, tùy theo quy mô và chất lượng hoàn thiện thể chế.

Áp lực giải ngân đầu tư công

Riêng về đầu tư công, các bộ ngành, địa phương đang quyết tâm đạt tỷ lệ giải ngân ít nhất 95% kế hoạch Thủ tướng giao. Ông đánh giá sao về khả năng này và tác động thế nào tới tăng trưởng?

- Giải ngân vốn đầu tư công theo Bộ KH&ĐT ước đạt 51,38% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ cả về số tương đối (46,7%) và tuyệt đối (cao hơn khoảng 110.000 tỷ đồng). Dù đạt được những kết quả rất tích cực, song áp lực giải ngân vốn đầu tư công trong năm nay vẫn còn rất lớn

Nguồn lực đầu tư công mới giải ngân được hơn một nửa, còn gần một nửa vốn kế hoạch năm 2023 cần phải đưa vào giải ngân, đặc biệt là vốn đầu tư thuộc Chương trình Phục hồi và Phát triển kinh tế - xã hội.

Đẩy nhanh tiến độ đầu tư công, ưu tiên các dự án sắp hoàn thành; sớm đưa vào sử dụng các dự án có quy mô, có tiềm năng nhằm duy trì và mở rộng năng lực sản xuất - kinh doanh.

Đầu tư công cũng phải gắn liền với tính hiệu quả. Nếu không quản lý được, đầu tư tràn lan, nhiều công trình dự án đầu tư xong nhưng phát huy hiệu quả kém. Như thế là lãng phí tiền đầu tư.

 

 

Việc phát hiện, khai thác hiệu quả những động lực tăng trưởng mới cũng hết sức quan trọng như: kinh tế số, nâng cao năng suất lao động đi kèm với gia tăng chất lượng hàng hóa dịch vụ, thúc đẩy kinh tế tư nhân, hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế, thúc đẩy kinh tế xanh và chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, quyết tâm nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu… Đây là vấn đề vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược đối với Việt Nam trong bối cảnh hiện nay cũng như đến năm 2025 và năm 2030.
TS Cấn Văn Lực

 

Tính toán của Bộ KH&ĐT, nếu năm nay đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5%, thì bình quân hai năm 2024 - 2025, tăng trưởng GDP phải đạt 7,76%/năm, mới có thể đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm là 6,5%, cận dưới mục tiêu 5 năm 6,5 - 7%, theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII. Còn nếu tăng trưởng năm 2023 chỉ là 6%, thì bình quân hai năm 2024 - 2025, phải tăng trưởng 8%/năm?

- Yêu cầu tăng trưởng kinh tế với tốc độ 7 - 8%/năm trong 3 năm tiếp theo sẽ là rất thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. Con số này đòi hỏi tiêu dùng nội địa tăng 7%, xuất khẩu tăng 8,5% (nhập khẩu có thể tăng cao hơn) và đặc biệt là tổng đầu tư tăng 9%. Bên cạnh đó, khu vực kinh tế sản xuất kinh doanh, nông nghiệp cần tăng 3%, công nghiệp 7 - 7,2% và dịch vụ 6,8 - 7%. Kịch bản này cũng đòi hỏi ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì và các chính sách đột phá.

Để thúc đẩy tăng trưởng, cần chú trọng các động lực tăng trưởng truyền thống, đồng thời khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng mới.

Với động lực tăng trưởng truyền thống, cần đẩy mạnh giải ngân đầu tư công bởi theo đánh giá của chúng tôi, nếu giải ngân được 95% tổng vốn đầu tư công như chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đầu tư Nhà nước tăng 30%, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 13,2% và đóng góp 2 điểm % vào tăng trưởng GDP năm 2023; kích cầu tiêu dùng nội địa, tiêu dùng (loại trừ yếu tố giá) tăng thêm 1 điểm % sẽ giúp GDP tăng thêm 0,2 điểm %; quan tâm thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu nền kinh tế, nhất là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh (hai TP này đóng góp khoảng 39% tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2019 và có tính lan tỏa cao), qua đó thúc đẩy liên kết vùng…

Xin cảm ơn ông!