Trái phiếu đảm bảo bằng cổ phiếu và không có tài sản đảm bảo chiếm hơn 50%
Theo thống kê của Công ty Chứng khoán SSI, năm 2021, các doanh nghiệp phát hành 723 nghìn tỷ đồng trái phiếu trong năm 2021, tăng 56% so với 2020. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) tăng bình quân 46%/năm trong 5 năm gần đây và chiếm 16,6% GDP của Việt Nam. Hình thức phát hành đa dạng hơn, nhà đầu tư nước ngoài gia tăng sở hữu TPDN Việt Nam. Trái phiếu bất động sản vẫn là nhóm có lãi suất hấp dẫn nhất thị trường, bình quân là 10,4%/năm.
Đáng quan tâm, trái phiếu đảm bảo (một phần/toàn bộ) bằng cổ phiếu và trái phiếu không có tài sản đảm bảo chiếm 53% tổng lượng TPDN phi tài chính phát hành năm 2021. Gần như toàn bộ 226 nghìn tỷ đồng trái phiếu ngân hàng và 28,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu các định chế tài chính khác (chủ yếu là công ty chứng khoán) phát hành trong năm 2021 đều không có tài sản đảm bảo. Với đặc tính là trung gian tài chính, có khả năng thanh toán và thanh khoản cao, được giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý nên việc các trái phiếu này không có tài sản đảm bảo cũng không đáng ngại và là thông lệ thị trường.
Với 468 nghìn tỷ TPDN còn lại, số trái phiếu không có tài sản đảm bảo là 83 nghìn tỷ đồng (chiếm 18%), đảm bảo toàn bộ bằng cổ phiếu là 33 nghìn tỷ đồng (chiếm 7%), đảm bảo một phần bằng tài sản/bất động sản và một phần bằng cổ phiếu là 131,3 nghìn tỷ đồng (chiếm 28%).
Tính riêng nhóm trái phiếu bất động sản, số trái phiếu không có tài sản đảm bảo hoặc đảm bảo (một phần/toàn bộ) bằng cổ phiếu là 172,5 nghìn tỷ đồng - chiếm 54,2% lượng phát hành 2021. Con số thực tế có thể lớn hơn vì có tới 33 nghìn tỷ đồng (10%) trái phiếu bất động sản phát hành không có thông tin về tài sản đảm bảo.
Thêm nhiều quy định “siết” thị trường - TPDN có còn hấp dẫn?
Năm 2022, theo các chuyên gia, những thay đổi về quy định pháp lý có thể tác động mạnh đến thị trường, tuy nhiên, TPDN vẫn được dự đoán có khả năng tăng trưởng tốt do cung cầu duy trì ở mức cao
Theo đó, dự thảo sửa đổi Nghị định 153/2020/NĐ-CP đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ, ngoài việc quy định chi tiết hơn về trách nhiệm công bố thông tin, hoạt động lưu ký tập trung, điều kiện đăng ký/thay đổi/hủy bỏ giao dịch… để phát triển thị trường thứ cấp, Dự thảo cũng đưa ra một số điểm sửa đổi bổ sung quan trọng, có thể tác động mạnh đến thị trường TPDN.
Cụ thể bổ sung các yêu cầu sau: Doanh nghiệp không được phát hành trái phiếu để góp vốn dưới mọi hình thức, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác, hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn. Trường hợp phát hiện doanh nghiệp phát hành sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu không đúng mục đích tại phương án phát hành trái phiếu hoặc cam kết với nhà đầu tư, thì nhà đầu tư yêu cầu doanh nghiệp phát hành trái phiếu mua lại trái phiếu trước hạn. Yêu cầu có xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu và trái phiếu phát hành trong trường hợp phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân, phát hành trái phiếu không có tài sản đảm bảo, không có bảo lãnh thanh toán, doanh nghiệp phát hành có kết quả kinh doanh của năm liền trước năm phát hành lỗ hoặc có lỗ lũy kế tính đến năm phát hành.
“Chúng tôi nhận thấy các TPDN có mục đích sử dụng là góp vốn hay không có tải sản đảm bảo/bảo lãnh thanh toán không phải là ít” - các chuyên gia SSI cho hay.
Các quy định trên nếu có hiệu lực sẽ giảm bớt đáng kể cơ hội huy động vốn trái phiếu của doanh nghiệp. Ngoài ra, việc siết cứng quy định về mục đích phát hành với dòng vốn trái phiếu (thường dài 3 - 5 năm) cũng có thể khiến doanh nghiệp phải cân nhắc lại về kênh gọi vốn này.
Các quy định mới cũng khiến vai trò của ngân hàng tiếp tục thu hẹp. Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán TPDN đã chính thức có hiệu lực từ 15/1/2022. Trong đó một số quy định siết chặt hơn, như tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu của tổ chức phát hành không có phát sinh nợ xấu trong 12 tháng gần nhất (tại tất cả TCTD); không được mua lại TPDN chưa niêm yết đã bán và/hoặc trái phiếu phát hành cùng lô/đợt với trái phiếu đã bán trong vòng 12 tháng; không được bán TPDN cho các công ty con.
Theo định hướng, các ngân hàng thương mại sẽ tập trung vào kênh tín dụng ngắn hạn, và TPDN sẽ là kênh huy động vốn vay trung và dài hạn của doanh nghiệp. Việc các ngân hàng thương mại cấp tín dụng cho doanh nghiệp thông qua đầu tư TPDN cũng sẽ hạn chế hơn.
Về triển vọng thị trường TPDN năm 2022, báo cáo của Công ty SSI phân tích, mặt bằng lãi suất tiền gửi năm 2022 có thể tăng nhẹ 20 - 25bps, nên chênh lệch lãi suất kênh TPDN so với kênh tiền gửi vẫn duy trì ở mức hấp dẫn, nhu cầu đầu tư TPDN vẫn cao.
Mặt khác, số TPDN đáo hạn năm 2022 ước khoảng 266 nghìn tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2020 và chiếm khoảng 19% lượng TPDN lưu hành. Nhu cầu phát hành để đảm bảo vòng quay vốn của các doanh nghiệp khá cao. Cùng với đó, hoạt động sản xuất kinh doanh được kỳ vọng sẽ sôi động hơn 2021 khi nền kinh tế đang mở cửa trở lại sau đại dịch. Bởi vậy, nguồn cung TPDN dự kiến vẫn rất dồi dào.