"Tuyên ngôn Độc lập" - sự khẳng định tư tưởng "không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
Kinhtedothi - Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện pháp lý tuyên bố chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật, xác lập chủ quyền lãnh thổ và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, mà còn là một bản tuyên ngôn tư tưởng, khẳng định một chân lý lớn lao, thiêng liêng, mang giá trị lịch sử và thời đại sâu sắc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thể quốc dân và Nhân dân thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn kiện pháp lý tuyên bố chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật, xác lập chủ quyền lãnh thổ và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, mà còn là một bản tuyên ngôn tư tưởng, khẳng định một chân lý lớn lao, thiêng liêng, mang giá trị lịch sử và thời đại sâu sắc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
80 năm đã trôi qua, song chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã trở thành tiền đề, động lực to lớn để Nhân dân Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; đồng thời là động lực để dân tộc Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội mà ở đó, Nhân dân và dân tộc được độc lập, tự do, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Sự hình thành và phát triển tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
Theo các tài liệu được lưu giữ hiện nay, đến tháng 7/1966, trong Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh mới đưa ra cụ thể, đầy đủ cụm từ “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, song trong thực tế, tư tưởng này đã được Người ấp ủ và khẳng định ngay từ rất sớm.
Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi dân tộc Việt Nam đang rên xiết dưới sự bóc lột, đàn áp của chế độ thực dân, phong kiến. Ngay từ nhỏ, Người đã được nghe kể về tấm gương các anh hùng chống giặc ngoại xâm trong lịch sử vẻ vang của dân tộc, được học những bài học đạo lý truyền thống và chứng kiến những nỗi đau khổ, tủi nhục của người dân mất nước. Vì thế, tuy còn non nớt về nhận thức, nhưng trong tâm hồn người thiếu niên Nguyễn Tất Thành đã dần hình thành một cảm thức sâu xa về thân phận dân tộc nô lệ, về nỗi thống khổ của Nhân dân dưới ách đô hộ thực dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2/9/1945. Ảnh tranh tư liệu
Tư duy ấy được đã tiến thêm một bước lớn khi lần đầu tiên Người được tiếp xúc với ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái tại Trường Tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh. Từ đó, Nguyễn Tất Thành “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Sau này, khi trả lời một nhà văn Mỹ, Người đã nói về quyết tâm của bản thân mình thuở thiếu thời: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau, ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Mang theo hành trang là khát vọng tìm một con đường để đất nước được độc lập, người dân được tự do, tháng 6/1911, Nguyễn Tất Thành lên con tàu Amiral Latouche Tréville, bắt đầu cuộc hành trình suốt 30 năm qua nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là một cuộc hành trình khảo nghiệm lý tưởng, tích lũy tri thức và tìm kiếm con đường cứu nước, cứu dân, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc. Chính trong những năm tháng đó, tư tưởng về độc lập và tự do dần định hình trong Nguyễn Tất Thành như một yêu cầu cấp bách, một lý tưởng sống cũng như một mục tiêu phải đạt được. Vì vậy, năm 1919, khi được tin các nước đế quốc tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất họp tại Versailles (Pháp), Nguyễn Tất Thành đã thay mặt những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi đến Hội nghị bản Yêu sách của Nhân dân An Nam ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Mặc dù nội dung bản yêu sách chưa trực tiếp đòi độc lập hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam, mà dừng lại ở các yêu cầu cải cách về quyền dân sự, tự do báo chí, giáo dục, bình đẳng pháp luật và quyền lợi cho người bản xứ, song đây chính là những tiếng nói đầu tiên thể hiện rõ khát vọng dân tộc và tinh thần đấu tranh vì quyền tự quyết của Nguyễn Ái Quốc. Qua 8 điều được nêu ra trong bản yêu sách, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Nhân dân An Nam không cam chịu kiếp nô lệ, không chấp nhận sự áp bức bất công và sẵn sàng đứng lên đòi hỏi các quyền cơ bản của một dân tộc. Có thể nói, những yêu cầu được đề cập trong Bản yêu sách của Nhân dân An Nam chính là sự hiện thực hóa đầu tiên cho lý tưởng và khát vọng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Cùng với quá trình tìm hiểu và khảo nghiệm lý luận và thực tiễn, quan điểm “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về nhận thức và hành động. Trong những năm tháng sống và hoạt động tại Pháp, Nga, Trung Quốc, Thái Lan..., trên nhiều diễn đàn, Người đã lên án gay gắt sự áp bức của chủ nghĩa thực dân và khẳng định quyền sống, quyền làm người, quyền được tự do, độc lập là thiêng liêng, không thể bị tước đoạt. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp cụ thể nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng các tổ chức cách mạng, đào tạo cán bộ, chuẩn bị về tư tưởng và lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 là một bước tiến lớn trên con đường hiện thực hóa lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đặc biệt, trong thời kỳ 1930-1945, dù phải chịu cảnh bị cầm tù, phải hoạt động bí mật trong điều kiện gian khổ và nguy hiểm, song Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh vẫn luôn kiên định mục tiêu giải phóng dân tộc với quyết tâm “dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”1. Khát vọng ấy đã trở thành hiện thực với sự thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử. Từ đây, đất nước Việt Nam chính thức bước sang một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
“Tuyên ngôn Độc lập”, sự khẳng định tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh chắp bút vào cuối tháng 8 năm 1945, trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử đất nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thành công nhanh chóng, đất nước giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Nhưng nền độc lập vừa giành được của dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ bị các thế lực thực dân, đế quốc tái chiếm. Trong thời điểm ấy, bản Tuyên ngôn không chỉ là lời tuyên bố trước quốc dân, đồng bào cả nước, mà còn là một thông điệp gửi tới cộng đồng quốc tế: Việt Nam đã độc lập và Nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy bằng tất cả tinh thần, lực lượng và sinh mệnh của mình.

Các đường phố Hà Nội rợp cờ hoa mừng 80 năm Quốc khánh 2/9
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng cách trích dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại là Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của nước Pháp. Kể lại việc làm đặc biệt này của Hồ Chí Minh, L.A.Patti khi đó là Trưởng phòng Đông Dương của Cơ quan Tình báo chiến lược OSS của Mỹ ở Hoa Nam đã viết: Trong cuộc gặp ngày 29/8/1945, Patti đã được Hồ Chí Minh cho nghe bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập, ông rất ngạc nhiên khi thấy Hồ Chí Minh đã sử dụng, đảo trật tự, thay thế một số câu trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Điều này đã đem lại cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam những ý nghĩa mới.
Theo đó, nếu bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” thì Hồ Chí Minh đã mở rộng và nâng vấn đề quyền tự do lên một tầm cao mới, không dừng lại ở quyền cho mỗi cá nhân mà mở rộng trở thành quyền của mọi dân tộc. Người viết: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Với cách trích dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam vào một nền tảng tư tưởng mang tính phổ quát, được công nhận bởi chính những quốc gia văn minh nhất. Đồng thời đây cũng là một việc làm có tính chất ngoại giao khéo léo, khi người đưa cuộc cách mạng của Việt Nam thoát khỏi khuôn khổ “một xứ thuộc địa nổi dậy” để đặt ngang hàng với các cuộc cách mạng dân chủ vĩ đại trên thế giới. Điều này giúp cho lời tuyên bố độc lập của Việt Nam trở nên chính danh, có căn cứ pháp lý, có sức thuyết phục và sự lan tỏa quốc tế mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, cách mở đầu đặc biệt ấy còn phản ánh tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn kết giữa quyền dân tộc và quyền con người, giữa độc lập dân tộc và tự do cá nhân. Bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, người dân không thể có tự do thực sự nếu dân tộc bị đô hộ và cũng không thể nói đến độc lập đúng nghĩa nếu người dân không được sống trong hạnh phúc và quyền tự chủ. Có thể nói, bằng việc trích dẫn những bản tuyên ngôn đã đi vào lịch sử thế giới, phần mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập đã đặt nền móng vững chắc cho tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Tiếp đó, Hồ Chí Minh dành phần lớn nội dung Tuyên ngôn để lên án, vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với đất nước và Nhân dân Việt Nam để từ đó chứng minh giá trị của độc lập, tự do qua thực tiễn đau thương. Người chỉ rõ: “hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng là có tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Bằng cách liệt kê những tội ác từ chính trị, kinh tế, văn hóa đến quân sự, Hồ Chí Minh đã cho thấy sự tàn bạo của chế độ thực dân, làm cho dân tộc Việt Nam không những mất nước mà còn mất cả quyền sống đúng nghĩa con người.
Cái gọi là “văn minh khai hóa” thực chất chỉ là sự bóc lột, đàn áp, triệt tiêu mọi giá trị sống. Sự thực lịch sử diễn ra ở Việt Nam trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ là những minh chứng sinh động và cụ thể cho hiện thực ấy: “Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những pháp luật dã man... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu, cồn, để làm cho nòi giống ta suy nhược. Về kinh tế - chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy khiến cho dân nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”.
Chính vì vậy, nền độc lập mà dân tộc Việt Nam giành lại được không đơn thuần là sự thay đổi về thể chế, mà là sự hồi sinh của một dân tộc, là điều kiện tiên quyết để người dân được sống như những con người đúng nghĩa.
Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh còn đi xa hơn khi lật tẩy sự phản bội của thực dân Pháp trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi thực dân Pháp đã “bỏ chạy”, “đầu hàng” và “bán nước ta hai lần cho Nhật”. Vì thế, “từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa... Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải tự tay Pháp”. Từ đó, Người tuyên bố: “Lâm thời Chính phủ nước Việt Nam mới - đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”, đồng thời “toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.
Không chỉ lên án tội ác của thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định rõ ràng và dứt khoát: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Sự lặp lại của cụm từ “phải được” trong một đoạn văn ngắn không chỉ là một cách nhấn mạnh về ngữ pháp, mà còn là sự khẳng định quyền thiêng liêng không thể chối cãi của mỗi người dân Việt Nam đó là quyền sống trong một đất nước tự do, độc lập, quyền làm chủ vận mệnh của chính mình.
Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Lời khẳng định đanh thép ấy chính là điểm hội tụ cao nhất của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - tư tưởng được Hồ Chí Minh đã từng bước khẳng định từ những ngày đầu bước chân đi tìm đường cứu nước cho đến thời khắc lịch sử ngày 2/9/1945.
Sáng mãi tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” từ bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945
Kể từ khi ra đời và được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng lớn lao, dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ nhưng cũng vô cùng oanh liệt để bảo vệ và giữ vững chân lý ấy.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, đất nước Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh lực lượng còn non yếu, đất nước đói nghèo do hậu quả của chiến tranh kéo dài, nền độc lập mới giành được bị đe dọa nghiêm trọng. Trong hoàn cảnh đó, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” thực sự trở thành ngọn cờ hiệu triệu, cổ vũ toàn thể Nhân dân Việt Nam vùng lên chiến đấu, là nền tảng cho tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Nhưng ngay sau đó, đất nước Việt Nam lại bước vào một cuộc chiến tranh khốc liệt khác - cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Một lần nữa, chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, vang lên đầy khí phách năm 1966, khi Người kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ nền độc lập dân tộc và tự do cho Nhân dân.
Lời tuyên bố ấy không chỉ là một lời hiệu triệu, mà là sự khẳng định quyết tâm sắt đá của một dân tộc không bao giờ khuất phục. Dưới ánh sáng của chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, biết bao thế hệ người dân Việt Nam đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, chiến đấu không tiếc máu xương không chỉ để bảo vệ tấc đất quê hương, mà cao hơn, để bảo vệ nền độc lập, thống nhất và tự do của dân tộc. Cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ ấy đã đi đến thắng lợi vĩ đại vào mùa Xuân năm 1975 - một chiến thắng không chỉ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mà còn khẳng định trước thế giới rằng: không có thế lực nào có thể khuất phục được một dân tộc mang trong mình lý tưởng độc lập, tự do.
Từ đây, đất nước Việt Nam bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ khôi phục và phát triển, song chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, khi công cuộc đổi mới được khởi xướng từ năm 1986, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa bằng đường lối phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững chủ quyền quốc gia.
Trải qua 80 năm, đất nước Việt Nam đã đổi thay sâu sắc, từ một quốc gia nô lệ, nghèo nàn, bị tàn phá bởi chiến tranh, giờ đây, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi của thời đại toàn cầu hóa, đất nước Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, sức ép về kinh tế, văn hóa... Vì vậy, chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ cần được giữ gìn bằng lòng yêu nước mà còn phải được cụ thể hóa bằng những đường lối kiên định, linh hoạt và khôn khéo. Một đường lối minh chứng sâu sắc cho chân lý đó chính là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với hình ảnh biểu tượng: ngoại giao cây tre Việt Nam. Đó là đường lối kiên cường mà mềm mại, vững gốc mà biết uốn mình khi cần thiết, thực hiện những chính sách “vạn biến” linh hoạt, khôn khéo để hội nhập hiệu quả, tranh thủ thời cơ, hóa giải thách thức trên cơ sở giữ vững nguyên tắc bất biến “độc lập, tự do” của đất nước và dân tộc.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh hiện nay, giữ vững độc lập không chỉ là độc lập chủ quyền lãnh thổ mà còn là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Tự do không còn bó hẹp trong khái niệm pháp lý, mà là tự do sáng tạo, tự do tiếp cận tri thức, tự do vươn lên làm chủ cuộc đời.... Bởi vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập và chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn đặt ra cho chúng ta yêu cầu vừa phải bảo vệ thành quả độc lập, vừa phải hiện thực hóa tự do một cách đầy đủ, toàn diện.
Có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ quyền quốc gia, mà còn đặt nền tảng tư tưởng cho cả quá trình cách mạng lâu dài, bền bỉ và vô cùng anh dũng của dân tộc Việt Nam. Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được Chủ tịch Hồ Chí minh khẳng định từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã, đang và sẽ là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, để đất nước Việt Nam giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và tự tin “sánh vai với các cường quốc năm châu” đúng như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

VR-A80: Sản phẩm truyền thông số đặc biệt chào mừng 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Kinhtedothi - Văn phòng UBND Thành phố Hà Nội (Trung tâm Truyền thông, Dữ liệu và Công nghệ số) chính thức ra mắt sản phẩm truyền thông số đặc biệt mang tên VR-A80, chào mừng kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2025).

Hà Nội bảo đảm an ninh, trật tự dịp kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9
Kinnhtedothi - Ngày 22/8, UBND Thành phố Hà Nội đã ban hành Công văn số 13289/VP-BTCD về việc thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự về tình hình công dân khiếu kiện không đúng nơi quy định trong dịp Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2/9 trên địa bàn Thành phố.

Giới thiệu nhiều cuốn sách hay về Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Kinhtedothi – Nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 – 19/8/2025) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 – 2/9/2025), Trung tâm Văn hóa và Thư viện Hà Nội giới thiệu đến bạn đọc nhiều cuốn sách hay về thời khắc lịch sử trọng đại của dân tộc.