Kết quả khảo sát cho thấy, trên phạm vi cả nước, hiện có 5.468 xã vùng DTTS và miền núi (viết gọn là xã vùng DTTS), chiếm 49% tổng số xã toàn quốc. Các xã vùng DTTS phân bố chủ yếu ở khu vực nông thôn (87,3%), thuộc phạm vi quản lý của 503/713 huyện, thị xã trực thuộc tỉnh tại 54/63 tỉnh, TP trực thuộc trung ương.
Năm 2019, 98,6% số thôn thuộc các xã vùng DTTS đã được tiếp cận điện. Trong đó, tỷ lệ thôn được sử dụng điện lưới quốc gia chiếm tới 97,2%, tăng 4,2 điểm phần trăm so với năm 2015 (lần điều tra thứ nhất). Khoảng cách trung bình từ trung tâm xã vùng DTTS đến trung tâm huyện là 16,7km.
Phần lớn đường giao thông từ trung tâm xã vùng DTTS đến trung tâm huyện đã được cứng hóa với tỷ lệ km được cứng hóa (trải nhựa hoặc bê tông) đạt 95,2%. Gần 90% các thôn thuộc vùng DTTS đã có đường giao thông đến trung tâm xã được cứng hóa, cao hơn gần 17 điểm phần trăm so với năm 2015.
Hầu hết các xã vùng DTTS đã có trạm y tế, chiếm 99,5%, tương đương với kết quả điều tra năm 2015. Các trạm y tế xã vùng DTTS được xây dựng kiên cố hoặc bán kiên cố; đạt tỷ lệ 99,6%. Tỷ lệ xã có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế cấp xã theo chuẩn quốc gia giai đoạn đến 2020 đạt 83,5%, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2015 (45,8%).
Tại các trạm y tế cấp xã vùng DTTS, hiện có hơn 33.400 lãnh đạo, nhân viên y tế đang làm việc. Phần lớn lãnh đạo, nhân viên tại các trạm y tế xã có trình độ y sỹ, y tá hoặc điều dưỡng viên, chiếm trên 50%. Có 83,5% thôn thuộc các xã vùng DTTS có nhân viên y tế thôn, bản.
Cả nước có gần 21.600 trường học và 26.500 điểm trường vùng DTTS, tăng hơn 3.800 trường và giảm 2.300 điểm trường so với năm 2015. Tỷ lệ trường học kiên cố đã đạt 91,3%, trong khi đó tỷ lệ điểm trường được xây dựng kiên cố mới chỉ đạt 54,4%. Tổng số giáo viên đang giảng dạy tại các trường và điểm trường vùng DTTS là gần 525.000 người; trong đó, 134.900 giáo viên là người DTTS (chiếm 25,7%).
Cũng theo kết quả điều tra, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc vùng DTTS là 35,5%, giảm 1,2 điểm phần trăm so với năm 2015. Con số này cao gấp 3,5 lần tỷ lệ chung của toàn quốc (10,2%).