10 triệu tấn than nhập khẩu: Không tác động quá tiêu cực đến ngành than

theo Chinhphu.vn
Chia sẻ Zalo

Việc nhập khẩu số lượng lớn than trong thời gian vừa qua sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đầu tư, mở rộng của Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) nhưng sự ảnh hưởng này chỉ trong ngắn hạn.

Đây là khẳng định của ông Nguyễn Khắc Thọ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng Việt Nam (Bộ Công Thương) tại buổi tọa đàm trực tuyến “Nhập khẩu than và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia” do Cổng TTĐT Chính phủ tổ chức vào sáng nay (24/10).

Không phải là “vỡ trận” nhập khẩu than

Báo cáo trước đó của Tổng cục Hải quan cho thấy, tính đến 15/9, tổng lượng than nhập khẩu đạt 10,1 tấn với kim ngạch 629,5 triệu USD. Như vậy, nhập khẩu than hiện đã “vỡ kế hoạch” 7 triệu tấn so mốc dự báo 3,1 triệu tấn do Bộ Công Thương đưa ra đầu năm 2016.
Nhìn nhận về vấn đề này, ông Nguyễn Khắc Thọ cho biết, than là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, than xuất khẩu thời gian vừa qua chủ yếu là than trong nước chưa sử dụng hết hoặc chưa sử dụng. Hằng năm, Bộ Công Thương trên cơ sở tính toán cung cầu, đáp ứng tối đa sử dụng trong nước, còn lại báo cáo Chính phủ xuất khẩu.
 Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng Việt Nam Nguyễn Khắc Thọ (giữa) và Phó Tổng Giám đốc TKV Nguyễn Văn Biên tại buổi tọa đàm trực tuyến “Nhập khẩu than và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia” - Ảnh: VGP/Nhật Bắc
Về việc nhập khẩu than tăng nhanh, ông Thọ lý giải do nguồn than trong nước không đáp ứng và giá than nhập khẩu rẻ hơn giá than khai thác trong nước. Nguyên nhân giá than trong nước cao hơn do kỹ thuật khai thác than, đa số mỏ khai thác ở dưới sâu, thậm chí âm 300 m so với mực nước biển, chi phí khai thác mỏ lộ thiên với hệ số bóc đất đã tăng gấp 3 lần làm tăng chi phí sản xuất, giá thành sản xuất than trong nước.

Bên cạnh đó, than trong nước cũng chịu tác động bất lợi từ cơ chế chính sách về thuế như 1/7/2016, thuế tài nguyên môi trường tăng trung bình 3 lần nếu tính tiền cấp quyền khai thác, bản chất cũng là thuế tài nguyên tăng hơn 10%, cao hơn mức trung bình 7%.

“Trong khi đó, thời gian vừa qua giá than tại nhiều thị trường lại giảm, đây là yếu tố vì sao nhập khẩu than lớn trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, thời điểm gần đây giá than nhập khẩu đã tăng so với 6 tháng đầu năm và đã dần tiệm cận giá than sản xuất, thời gian tới có thể ngang giá than sản xuất”, ông Thọ nhấn mạnh.

Ông Thọ cũng cho biết, nhu cầu than 3 triệu tấn trong dự báo hồi đầu năm của Bộ Công Thương chưa tính đến các nhà máy nhiệt điện BOT và các nhà máy đã nhập khẩu than trước đây như Formosa Đồng Nai, số liệu 3 triệu tấn cũng chưa tính đến các hộ khác như sản xuất xi măng, hoá chất, phân bón, luyện kim… theo đó khối lượng than phải nhập có thể lên đến 8 triệu tấn. Vì thế, theo quan điểm của ông Thọ, con số than nhập khẩu lên đến 10,1 triệu tấn không hoàn toàn là “vỡ trận” mà vẫn dựa theo nhu cầu phục vụ sản xuất trong nước.

Than nhập khẩu không tác động lớn đến bảo đảm an ninh năng lượng

Tuy nhiên, đánh giá về tác động của việc nhập khẩu 10,1 triệu tấn than trong 9 tháng vừa qua, ông Nguyễn Khắc Thọ cho rằng, việc nhập khẩu số lượng lớn than sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đầu tư, mở rộng của TKV, ảnh hưởng đến việc thu hút lao động dẫn đến việc khó khăn lúc cần gia tăng sản lượng sau này khi thị trường phục hồi.

“Thế nhưng sự ảnh hưởng này chỉ trong ngắn hạn bởi thực tế giá than trên thị trường thế giới đang trên đà tăng trở lại và tiệm cận dần với giá sản xuất than trong nước. Đồng thời, mặc dù trong điều kiện khó khăn như vậy nhưng TKV vẫn đang đầu tư, mở rộng các mỏ than mới để đạt mục tiêu như quy hoạch ngành than đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt”, ông Thọ nói.

Nhìn nhận về khía cạnh khác của việc nhập khẩu than, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Năng lượng cho rằng, muốn bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia ta phải đáp ứng đủ, ổn định và có tính lâu dài về nguồn cung than cho các nhà máy nhiệt điện cũng như các hộ tiêu dùng khác. Với các nhà máy nhiệt điện than, thời gian tồn tại của một nhà máy khoảng 20-25 năm nên việc thu xếp nguồn than ổn định bảo đảm duy trì hoạt động của nhà máy là một thách thức đối với ngành than.

“Về mặt lý thuyết, nếu ta nhập khẩu được than giá rẻ tức là đã tăng nguồn cung nguyên liệu đầu vào cho đất nước, chưa kể nếu đó là nguồn cung dài hạn sẽ là tín hiệu tốt. Tuy nhiên, trên cơ sở cân đối cung cầu thì những năm tới ta sẽ phải nhập khẩu than cho nhiệt điện cũng như các hộ tiêu thụ với khối lượng không nhỏ. Cụ thể, năm 2017 dự kiến phải nhập khẩu 4 triệu tấn than cho nhiệt điện và đến năm 2030 sẽ là 7 triệu tấn. Ngành than vừa phải đối diện với thách thức này vừa phải bảo đảm thực hiện như trong quy hoạch điều chỉnh đã được Chính phủ phê duyệt. Vì vậy, tôi cho rằng việc nhập khẩu số lượng than vừa qua có tác động nhưng tác động không lớn tới việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia”, ông Nguyễn Khắc Thọ nói.

Về phía Tập đoàn Than –Khoáng sản Việt Nam, ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng Giám đốc TKV cũng chia sẻ, ngành than đang trải qua giai đoạn khó khăn nhất trong 10 năm trở lại đây. Dự kiến cả năm nay sản lượng than giảm khoảng 3 triệu tấn so với năm 2015, việc này ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động cũng như những ngành nghề liên quan đến địa bàn.

“Từ nay đến năm 2020, TKV đã xác định 2 cụm nhà máy nhiệt điện sử dụng than antraxit là cụm Nhiệt điện Thái Bình và Nhiệt điện Vĩnh Tân I, mỗi cụm sử dụng khoảng 4,5 triệu tấn than. Như vậy, đến năm 2020, sản lượng của TKV cũng phải tăng thêm 9 triệu tấn mới đủ đáp ứng cho 2 nhà máy này. Chúng tôi đang xây dựng thêm mỏ mới để đáp ứng đủ than cho nền kinh tế”, ông Biên cho hay.

Liên quan đến ý kiến cho rằng, xu hướng nhập khẩu than thay thế dần nguồn than trong nước là cần thiết để vừa bảo đảm nhu cầu năng lượng, vừa hạn chế khai thác cạn kiệt tài nguyên quốc gia, vừa giảm bớt thế độc quyền của TKV bấy lâu nay, ông Nguyễn Khắc Thọ cho rằng, quan niệm này không sai nhưng trong dài hạn là không phù hợp.

“Hiện có những quốc gia có ngành công nghiệp than xuất khẩu nhiều là Australia và Indonesia, trong khi đó các nước có nhu cầu sử dụng than lớn như Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc đang tiến hành mua và đầu tư các mỏ than tại đây để có hợp đồng dài hạn, bảo đảm nguồn cung. Vì vậy, việc nhập khẩu than từ các quốc gia này tương đối khó khăn. Chính phủ cũng đã xác định tăng cường nhập khẩu than để bù cho nguồn than trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ chứ không có định hướng là tăng cường nhập khẩu than để thay thế nguồn than trong nước.

Mặt khác, xét về khía cạnh sử dụng, hiện than chúng ta đang khai thác là than antraxit, 80% lượng than này cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện không thể chuyển đổi sang than loại khác được.

Vì vậy, xét về nguồn nguyên liệu và công nghệ sử dụng thì việc nhập khẩu than để thay thế hoàn toàn than trong nước không khả thi”, ông Thọ cho hay

Về việc xử lý lượng than tồn kho của TKV, ông Nguyễn Văn Biên cho biết, 9 tháng đầu năm có lượng than tồn kho tại miền Tây, Vàng Danh, Uông Bí chưa xuất được do đó cần nhập khẩu than chất bốc cao, lưu huỳnh thấp để có thể trộn và đáp ứng nhu cầu khác nhau của khách hàng. Theo đó, có thể tạo điều kiện chiết khẩu, giảm giá cho khách hàng.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần