Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

33% lao động Việt tại Hàn Quốc tự ý bỏ ra ngoài làm việc

Thủy Tiên - Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – "Năm 2016 được đánh giá là năm có tỷ lệ lao động bỏ ra ngoài cao nhất, ở mức 55%. Tuy nhiên đến nay, con số này còn 33% và nước đối tác cho rằng, đây là tỷ lệ chấp nhận được", Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết.

Sáng 15/8, tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ĐB Trần Văn Lâm (Bắc Giang) đặt vấn đề, vừa qua, cử tri phản ánh người lao động Việt Nam đi lao động nước ngoài phải trả chi phí môi giới cao hơn nhiều lần so với các nước khác trong khối ASEAN, việc bảo vệ quyền lợi người lao động gặp nhiều khó khăn. Có nhiều trường hợp người lao động sang tới nơi thì không liên lạc được với môi giới ở nhà.
 Bộ trưởng Đào Ngọc Dung trả lời chất vấn. Ảnh VGP/Nhật Bắc. 
Mặt khác, tình trạng người lao động tự ý phá bỏ hợp đồng, bỏ ra ngoài làm việc gây thiệt hại cho người sử dụng lao động và làm mất ổn định thị trường lao động của nước đối tác và làm giảm uy tín của lao động Việt Nam. “Đề nghị Chính phủ cho biết thực trạng cụ thể hiện nay, trách nhiệm quản lý và biện pháp khắc phục trong thời gian tới” – ĐB Trần Văn Lâm đặt câu hỏi. 
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, số lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài ngày càng tăng. Cụ thể, năm 2017 có xấp xỉ 127.000 người; thì đến năm 2018 có khoảng 143.000 người Việt Nam sang lao động tại nước ngoài. Không chỉ số lượng, địa bàn lao động cũng được mở rộng tới các thị trường mới như Australia, Đức, Romania và gần đây nối lại với Czech sau một thời gian gián đoạn.
Về vấn đề lao động Việt Nam có chi phí môi giới cao, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung giải thích tại một số nước, các doanh nghiệp chỉ đưa người lao động đi sang nước ngoài lao động là hết trách nhiệm. Trong khi đó, tại Việt Nam, các doanh nghiệp còn phải quản lý, thậm chí tham gia xử lý những việc liên quan đến người lao động khi có vấn đề xảy ra tại nước đối tác.
Hiện nay, có khoảng 350 doanh nghiệp tham gia vào hoạt động đưa người Việt Nam sang nước ngoài làm việc. Doanh nghiệp Việt căn cứ vào các quy định pháp luật và hiệp định lao động giữa 2 nước để quy định mức tiền chi trả.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết, về thông tin lao động Việt phá vỡ hợp động, tự ý bỏ ra ngoài làm việc chủ yếu xảy ra ở Hàn Quốc. Năm 2016 được đánh giá là năm có tỷ lệ lao động bỏ ra ngoài cao nhất, ở mức 55%. Tuy nhiên đến nay, con số này còn 33% và nước đối tác cho rằng, đây là tỷ lệ chấp nhận được.
Gắn kết giữa nhà trường và DN được đẩy mạnh

Chất vấn tại Phiên họp, đại biểu Trần Thị Hằng- Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh, đề nghị Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết những đột phá về giáo dục nghề nghiệp sau hơn 2 năm triển khai thực hiện các Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội?

Trả lời vấn đề đại biểu Quốc hội quan tâm, Bộ trưởng Bộ LĐ, TB&XH Đào Ngọc Dung cho biết, sau khi có Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quyết định về thống nhất một đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp, toàn ngành và lãnh đạo Bộ LĐ, TB&XH đã tập trung và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm. Phấn đấu số người học nhiều hơn, chất lượng đào tạo nâng lên, đầu ra phải được cải thiện, tạo được sự ủng hộ của xã hội về giáo dục nghề nghiệp.

Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nội dung này đã được ban hành đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Theo đó có 63 văn bản khác nhau với 8 Nghị định của Chính phủ quy định và hướng dẫn về giáo dục nghề nghiệp. Về tuyển sinh, kết quả tuyển sinh năm 2019 đã đạt và vượt cùng kỳ năm 2018, đầu vào cao hơn. Gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp được tích cực đẩy mạnh, các nhà trường ký hợp tác với doanh nghiệp và đặt hàng cho đầu ra. Dự kiến đến tháng 9 Chính phủ sẽ tổ chức một diễn đàn quy mô lớn liên quan đến nâng cao, nâng tầm kỹ năng cho lao động Việt Nam. Nhiều học sinh trường nghề sau khi tốt nghiệp đã có việc làm ngay; các trường nghề đã có cam kết về đầu ra và mức lương cơ bản cho lao động. Tuy nhiên, Bộ LĐ, TB&XH vẫn ý thức đây mới là kêt quả ban đầu, cần có sự cố gắng, phát huy nhiều hơn nữa trong thời gian tới.