Theo Bộ NN&PTNT, trong 9 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng nông lâm nghiệp và thuỷ sản (NLTS) ước gần 52,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu (XK) đạt 30,05 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019; nhập khẩu (NK) ước khoảng 22,8 tỷ USD, giảm 2,2%. Xuất siêu khoảng 7,2 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Riêng kim ngạch XK NLTS ước đạt 30,05 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, nhóm nông sản chính ước đạt gần 13,7 tỷ USD, giảm 1,1%; chăn nuôi ước đạt 231 triệu USD, giảm 19,7%; thủy sản ước đạt trên 6,0 tỷ USD, giảm 3,0%; lâm sản chính đạt khoảng 9,1 tỷ USD, tăng 13,2%.
9 tháng đầu năm, mặc dù còn nhiều mặt hàng XK giảm nhưng gạo, rau, sắn, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ, quế, mây tre vẫn duy trì giá trị XK tăng so với cùng kỳ.
Cụ thể, giá trị XK gạo đạt 2,5 tỷ USD (tăng 12,0%); rau đạt 515 triệu USD (tăng 7,6%); sắn đạt 110 triệu USD (tăng 89,9%), xuất khẩu tôm thu về gần 2,75 tỷ USD (tăng 12,7%); quế đạt 168 triệu USD (tăng 30,8%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 8,5 tỷ USD (tăng 12,4%); mây, tre, cói thảm đạt 425 triệu USD (tăng 24,8%).
Đáng chú ý, Việt Nam đã có 8 nhóm, mặt hàng XK trên 1 tỷ USD và 6 nhóm, mặt hàng có giá trị XK trên 2 tỷ USD (cà phê 2,2 tỷ USD, gạo 2,5 tỷ USD, hạt điều đạt 2,3 tỷ USD, rau quả đạt 2,5 tỷ USD, tôm 2,75 tỷ USD, gỗ và sản phẩm gỗ đạt 8,5 tỷ USD).
Trong khi đó, kim ngạch NK các mặt hàng NLTS ước khoảng 22,8 tỷ USD, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, giá trị NK các mặt hàng nông lâm thủy sản chính ước đạt 17,8 tỷ USD, giảm 3,5%. Ngoại trừ các mặt hàng dầu mỡ động thực vật, lúa mì, ngô, đậu tương và chăn nuôi có giá trị NK tăng (lần lượt là +18,5%, +3,7%, +3,6%, +18,0% và +28,4%), các mặt hàng khác đều giảm so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, phân bón giảm 8,6% (phân URE giảm 78,5%), thuốc trừ sâu giảm 22,0%, bông giảm 14,7%, hạt điều giảm 20,6%, rau quả giảm 32,3%, gỗ và sản phẩm gỗ giảm 6,5%, thủy sản giảm 1,7%.
Để đạt mục tiêu XK trong năm 2020, Thứ tưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, ngành sẽ tiếp tục phối hợp với địa phương nắm bắt tình hình sản xuất, khó khăn vướng mắc trong tiêu thụ nông sản. Kịp thời thông tin, cảnh báo các quy định mới của thị trường XK, đặc biệt là thị trường Trung Quốc. Tiếp tục theo dõi, báo cáo thường xuyên biến động giá cả, tình hình cung cầu một số mặt hàng nông sản thiết yếu, kịp thời có những giải pháp cân đối cung cầu, tránh để xảy ra tình trạng bất thường về giá.
Phối hợp với bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy XK nông sản trước diễn biến mới của dịch bệnh Covid-19 trên thế giới, tập trung vào các thị trường trọng điểm. Kịp thời thông tin, cảnh báo các quy định mới của thị trường XK, đặc biệt là thị trường Trung Quốc; truyền thông mạnh mẽ hoạt động, sự kiện xúc tiến thương mại nổi bật của ngành, các sự kiện về xuất khẩu nông sản sang thị trường EU theo Hiệp định EVFTA.
Cùng với đó, tập trung giải quyết các rào cản kỹ thuật, đàm phán mở rộng thị trường như: Mở rộng công nhận vùng sản xuất, loại sản phẩm, doanh nghiệp XK sang các nước: Trung Quốc, EU, Liên minh kinh tế Á - Âu, Hoa Kỳ, Brazil… và XK thủy sản sang thị trường Ả rập xê út. Đồng thời, xây dựng chương trình đoàn công tác của Bộ tại Trung Quốc, Brasil, Liên Bang Nga, Nhật Bản, Australia sau khi kết thúc dịch Covid-19…