Có nhiều định nghĩa. Nhưng có thể hiểu đơn giản thế này, bản sắc đô thị là tổng hòa của nhiều thuộc tính thể hiện qua vật thể và văn hóa phi vật thể, trong đó thuộc tính căn bản nhất là đặc điểm cảnh quan, địa hình thiên nhiên, nơi tạo lập đô thị.
Chẳng hạn, khi nói đến Hà Nội, là nói đến sông Hồng, TP trong sông với cây xanh - mặt nước. Nói đến Đà Lạt, là nói đến TP cao nguyên mù sương, TP ngàn thông - ngàn hoa với thung lũng Tình yêu, hồ Than thở… Nói đến Huế là nói đến sông Hương - núi Ngự. Cũng như Paris hoa lệ của nước Pháp gắn với sông Seine, hay Luân Đôn là dòng sông Thames huyền thoại…
Phải luôn có sự kế thừaDù để thực hiện quy hoạch Hà Nội theo kiểu đô thị châu Âu trên cái nền một đô thị phong kiến có lịch sử hàng ngàn năm, bên cạnh việc phá hủy rất nhiều di sản kiến trúc của Việt Nam như chùa Báo Thiên (để lấy đất xây Nhà thờ Lớn, Tòa Khâm sứ…), phá hủy chùa Báo Ân có khuôn viên rộng đến hơn 100ha ở phía đông bờ Hồ Gươm để xây Nhà Bưu điện…, người Pháp vẫn biết khai thác tận dụng cảnh quan địa hình của Thăng Long xưa với khu phố cổ, Hồ Tây, Hồ Gươm rồi cả Văn Miếu - Quốc Tử Giám… Phong cách Kiến trúc Đông Dương (phong cách pha trộn kiến trúc Âu - Á) ra đời vào giữa những năm 20 của thế kỷ trước mà cha đẻ của nó là KTS người Pháp Ernest Hesbrard (Giám đốc Sở QH-KT Đông Dương thời đó) với những công trình kiến trúc nổi tiếng như trường Đại học Đông Dương (nay là Đại học Dược), Viện Viễn đông Bác cổ (nay là Bảo tàng Lịch sử), Sở Thuế quan (nay là Trụ sở Bộ Ngoại giao)… là ví dụ điển hình về tạo dựng kiến trúc có bản sắc tại Hà Nội. Còn chúng ta, rất tiếc, trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ kể từ khi đất nước hoàn toàn giải phóng sau 1975, đặc biệt là trong khoảng hơn 30 năm trở lại đây, rất nhiều đô thị mới được hình thành đã không tận dụng và phát huy được yếu tố quan trọng này để tạo ra hình ảnh kiến trúc đô thị có bản sắc.
Theo Định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Việt Nam đến 2025 tầm nhìn 2050 của Chính phủ, đến năm 2020, dân số đô thị là 44 triệu người (chiếm 45% dân số) và đến 2025 là 52 triệu người (chiếm 50% dân số), tỷ lệ đô thị hóa chiếm hơn 35% với hệ thống gần 900 đô thị.
Bản sắc đô thị được tạo nên bởi cả một quá trình cọ xát, vận động từ nhiều phía trong suốt chặng đường hình thành và phát triển. Bản sắc đô thị không bất biến mà luôn thay đổi theo hướng sâu sắc hơn, nếu được các thế hệ cư dân đô thị giữ gìn bồi đắp. Nhưng bản sắc đô thị sẽ thay đổi, thậm chí nhạt nhòa dần một khi lối sống, chức năng đô thị thay đổi. Đây là một thực tế đã và đang diễn ra ở Việt Nam. |
Đô thị hóa nhanh làm thay đổi cơ bản bản đồ phân bố dân cư và địa điểm cư trú. Các vùng nông thôn trù phú dần thu hẹp để nhường đất cho phát triển đô thị dẫn đến việc di chuyển ồ ạt cư dân từ nông thôn ra thành thị. Và tất nhiên, cùng với đó là sự chuyển dịch lối sống, tập quán, thói quen… của văn hóa làng truyền thống để thích nghi với văn hóa văn minh đô thị?!
Đến lối sống của mỗi người dânTại một hội thảo về bảo tồn khu phố cổ Hà Nội, GS người Mỹ William Logan, đến từ trường Đại học Deakin Australia, đã cho rằng: “Cái cần bảo tồn nơi đây không phải là bảo tồn những ngôi nhà mà là lối sống”. Lịch sử hàng ngàn năm Thăng Long - Hà Nội đã tạo nên một văn hóa Thăng Long, một lối sống thanh lịch của người Tràng An. Nếp sống đẹp này được bắt đầu từ khi hình thành khu phố cổ với những phố Hàng nổi tiếng. Nó thể hiện từ cách ăn, nếp ở, lời nói thường ngày của cư dân phố cổ. Lối sống thanh lịch được các thế hệ cư dân nơi phố cổ gìn giữ, bồi đắp qua rất nhiều thập kỷ. Cảnh quan Hà Nội, lối sống, nếp sống đó cho đến tận hôm nay dù phải chịu biết bao tác động của chiến tranh, của đô thị hóa, hiện đại hóa và phát triển, nhưng về cơ bản vẫn còn đó, vẫn ảnh hưởng sâu đậm đến sự hình thành nhân cách của một lớp cư dân Hà Nội thời hiện đại, trở thành một thứ di sản văn hóa hằn sâu trong ký ức của người dân Hà thành. Để rồi, những ai đã từng gắn bó với Hà Nội, mỗi khi phải đi xa cũng đều thảng thốt một nỗi nhớ mùa đông với cây bàng lá đỏ trên phố Tràng Thi, cây cơm nguội vàng trên đường Lý Thường Kiệt, hay mùa Thu với nồng nàn hương hoa sữa trên đường Nguyễn Du…, nhớ Phở Thìn Bờ Hồ - Lò Đúc, nhớ cà phê Nhân, bún chả hàng Mành, nhớ bánh tôm Hồ Tây... Thậm chí, một tiếng rao của người phụ nữ quẩy gánh hàng rong giữa trưa Hè phố cổ râm ran tiếng ve vọng đến từ những vòm phượng vĩ nở hoa đỏ rực bên Hồ Gươm cũng để làm ai đó nao lòng.
4.0 nhưng không thể mất bản sắc riêngĐô thị hóa và sự mở rộng các TP cùng với tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho người ta di chuyển từ nơi này sang nơi khác, từ nông thôn ra thành thị, từ quốc gia này sang quốc gia khác... kéo theo sự chuyển động bản sắc của các nơi khác. Hà Nội bây giờ không chỉ có người Hà Nội gốc (?!) mà còn có rất nhiều người từ các vùng quê khác ở mọi miền đất nước về định cư sinh sống. Bên cạnh những món ăn đặc sản của Hà Nội xưa, đã xuất hiện ngày càng nhiều những mỳ Quảng, bún Huế…, rồi các cửa hàng bán đồ ăn nhanh như gà rán KFC, khoai tây chiên MacDonald, Piza hay lẩu nướng Thái Lan, Nhật… Cà phê Starbuck. Khi các nhà hát to nhỏ của TP hàng tháng chả mấy ngày đỏ đèn, kín rạp, thì lớp trẻ Hà Nội lại ngày đêm phát cuồng với văn hóa Hàn qua biểu diễn của các nhóm nhạc Kpop trẻ trung xinh đẹp và phim tâm lý tình cảm Hàn Quốc chiếu nhan nhản thường ngày trên sóng truyền hình. Nói như nhà báo Mỹ Thomas L.Friedman tác giả cuốn sách nổi tiếng “Thế giới phẳng”, thì nơi nào phát triển sẽ du nhập theo lối sống phù hợp với xu hướng hát triển đó. Không biết có đúng thế không?
Khi các khu đô thị mới xuất hiện vào những năm 90 khởi đầu cho sự phát triển của thị trường bất động sản, người ta đã kỳ vọng về một sự đổi thay từ kiến trúc cho đến lối sống mới, văn hóa mới phù hợp với văn minh đô thị. Thế nhưng, ngoại trừ một vài khu đô thị cao cấp, siêu cao cấp đầy đủ tiện nghi, tiện ích, khuôn viên xinh đẹp rực rỡ sắc hoa, dành cho người giàu được bảo vệ nghiêm ngặt như khu Kengnam ở Seoul (Hàn Quốc) thì rất nhiều khu đô thị mới đã không trở thành các không gian sống hiện đại như mong muốn. Sự xuống cấp về kiến trúc tỷ lệ thuận với lối sống pha tạp của cư dân đô thị mới (nhưng lại tỷ lệ nghịch với lợi nhuận càng phình to của các chủ đầu tư). Các tòa nhà chung cư cao tầng bóng bảy (như các tờ quảng cáo bán hàng) đã nhanh chóng nhếch nhác bởi các hàng quán, chỗ để xe tự phát vây quanh. Người sống nơi đây cũng đủ loại, đủ giai tầng trong xã hội. Vì thế, lối sống của cư dân cũng khác nhau, văn hóa ứng xử trong chung cư cũng khác nhau. Thang máy hiện đại nhanh chóng trục trặc kỹ thuật, hư hỏng vì bị sử dụng quá tải. Cửa buồng thang thoát hiểm phòng khi xảy ra cháy nổ, hỏa hoạn bị khóa chặt để lấy chỗ đặt mấy cái đồ tập tàng, bỏ đi. Hành lang chung thành nơi đốt vàng mã ngày Rằm mồng Một, hay là nơi ăn nhậu mỗi khi nhà ai đó có sinh nhật, lễ lạt. Đã xuất hiện ngày càng nhiều nơi này nơi kia những đám đông căng băng rôn, biểu ngữ đòi chủ đầu tư trả tiền quỹ bảo trì, sổ đỏ… Tất cả đã tạo nên một hình ảnh xã hội thu nhỏ với nhiều mâu thuẫn, va đập trong thời kỳ đầu của sự phát triển, hiện đại hóa và quốc tế hóa. Vậy đây có phải là bản sắc của đô thị?
Chúng ta đang chuẩn bị cơ sở vật chất để bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đô thị sẽ chuyển mình thay đổi trong cách quản trị, vận hành đô thị và lối sống của cư dân đô thị thời công nghệ số và trí tuệ nhân tạo. Người viết bài này chưa mường tượng ra cái bản sắc đô thị thời 4.0 sắp tới đây sẽ như thế nào, nhưng có một điều chắc chắn rằng, dù đô thị có phát triển ở cấp độ nào đi chăng nữa thì đô thị đó vẫn phải là đô thị Việt Nam, của người Việt Nam, và như thế nó phải có bản sắc văn hóa đô thị Việt Nam, chứ không phải mang bản sắc của một đô thị ngoại lai nào khác!