70 năm giải phóng Thủ đô

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng: Ước thu ngân sách nhà nước năm 2020 giảm khoảng 190 nghìn tỷ đồng

Khang Nhi-Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Chiều 5/11, giải trình, làm rõ các ý kiến đại biểu nêu trong 3 ngày thảo luận ở hội trường vừa qua, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nêu rõ, dự toán thu ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2020 được xây dựng trên tinh thần quyết tâm cao hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) và ngân sách nhà nước (NSNN) 5 năm 2016-2020.

Theo đó, dự toán được xây dựng trên cơ sở dự kiến tăng trưởng kinh tế 6,8%, giá dầu thô 60 USD/thùng, lạm phát dưới 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 7%, kim ngạch nhập khẩu tăng 9%. Tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất kinh doanh trên 10% so với thực hiện năm 2019, trong điều kiện thực hiện thu năm 2019 tăng rất cao, vượt 9,9% so với dự toán (139,7 nghìn tỷ đồng), tăng cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.
Tuy nhiên, bước vào năm 2020, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư, thương mại và tài chính toàn cầu. Trong điều kiện Việt Nam đã hội nhập kinh tế sâu rộng, vì vậy ảnh hưởng của dịch bệnh là rất lớn trên hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và việc triển khai kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và NSNN năm 2020 của nước ta. Bên cạnh đó, như ý kiến của nhiều đại biểu đã nêu, diễn biến bất thường của thiên tai ngay từ đầu năm như mưa đá, lũ ống, lũ quét ở các tỉnh miền núi phía Bắc; hạn hán, xâm nhập mặn ở Đồng bằng Sông Cửu Long; mưa lũ, ngập lụt ở các tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân.
 Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng giải trình, làm rõ một số vấn đề các đại biểu Quốc hội quan tâm. 
Trước những khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, quán triệt sâu sắc các chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện mục tiêu kép: vừa tập trung phòng, chống dịch, vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, Bộ trưởng khẳng định, Chính phủ đã trình Quốc hội và ban hành theo thẩm quyền nhiều giải pháp, chính sách tài khóa để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội. Cụ thể, tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp; giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp; giảm 30% thuế bảo vệ môi trường đối với nhiêu liệu bay; nâng mức giảm trừ gia cảnh thuế thu nhập cá nhân. Giảm tiền thuê đất; gia hạn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất; gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất trong nước; giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất trong nước. Bộ Tài chính đã ban hành theo thẩm quyền 21 Thông tư giảm, miễn các loại phí, lệ phí… Đến nay, các chính sách trên đã góp phần giảm, giãn khoảng 100 nghìn tỷ đồng nghĩa vụ nộp NSNN, giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về dòng tiền, tăng tích tụ vốn cho doanh nghiệp.
Số thu NSNN 10 tháng đầu năm đã phản ánh rõ những khó khăn của doanh nghiệp và tác động của các chính sách miễn, giảm thuế, phí. Cụ thể, thực hiện thu NSNN 10 tháng đạt 75,2% dự toán, giảm 10,3% so với cùng kỳ năm 2019; là mức thấp nhất trong 10 năm gần đây (trong đó, ngân sách Trung ương đạt 70%, ngân sách địa phương đạt 81% dự toán). Một số địa phương có số thu lớn, có điều tiết về ngân sách Trung ương nhưng thực hiện 10 tháng rất thấp như: Hà Nội 70,1%; TP Hồ Chí Minh 64,8%; Vĩnh Phúc 60,8%; Đà Nẵng 56,4%; Quảng Nam 45,5%; Khánh Hòa 58,8%...
“Bên cạnh việc triển khai các giải pháp hỗ trợ miễn, giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp, chúng tôi cũng chỉ đạo cơ quan thuế, hải quan tăng cường quản lý thu, chống thất thu, chuyển giá”, Bộ trưởng cho biết. Theo đó, trong 10 tháng đầu năm, đã thực hiện 48,9 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra; kiểm tra hơn 436 nghìn hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế; kiến nghị xử lý 39.684 tỷ đồng; trong đó, thu NSNN 13.267 tỷ đồng, giảm khấu trừ 1.187 tỷ đồng, giảm lỗ 25.229 tỷ đồng. Đồng thời đã thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế giá trị gia tăng và phạt 117 tỷ đồng. Trong 9 tháng đầu năm, cơ quan thuế đã thu hồi được 20.292 tỷ đồng từ nợ đọng thuế từ năm 2019 chuyển sang.
Đối với đánh giá cả năm 2020, Bộ Tài chính đã rà soát, làm việc rất kỹ với các địa phương, trên cơ sở dự kiến tăng trưởng GDP 2-3% (so với kế hoạch là 6,8%), chúng tôi báo cáo ước thu NSNN năm nay giảm khoảng 190 nghìn tỷ đồng (bằng 12,5%) so với dự toán. Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn phải tăng chi phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và hỗ trợ thêm về an sinh xã hội. Đến nay, chúng ta đã chi khoảng 19 nghìn tỷ đồng cho các công tác phòng, chống và hỗ trợ người dân do đại dịch Covid-19 từ nguồn tăng thu tiết kiệm chi từ năm 2019 chuyển sang. Đồng thời, NSNN cũng đã chi khoảng 12,5 tỷ đồng hỗ trợ các hộ chăn nuôi bị ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi. Đối với công tác hỗ trợ khắc phục thiên tai, bão lũ, Chính phủ đã hỗ trợ 382 tỷ đồng cho 11 địa phương miền núi phía Bắc để khắc phục thiệt hại do mưa đá, dông lốc, sạt lở đất; hỗ trợ 530 tỷ đồng cho 8 địa phương vùng đồng bằng Sông Cửu Long để khắc phục hạn hán, xâm nhập mặn.
 Chiều ngày 5/11, Quốc hội tiếp tục thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội.
Đối với ảnh hưởng của mưa lũ miền Trung, Tây Nguyên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, trong tháng 10, bước đầu ngân sách Trung ương đã hỗ trợ 500 tỷ đồng cho 5 địa phương miền Trung. Đồng thời, Chính phủ đang hoàn thiện cơ chế hỗ trợ thiệt hại về nhà ở do tác động của thiên tai, mưa, bão, lũ gây ra trong tháng 10 cho người dân một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Theo đó, dự kiến ngân sách Trung ương sẽ phải hỗ trợ thêm cho các địa phương khoảng 1.000 tỷ đồng (dự kiến hỗ trợ 40 triệu đồng/hộ có nhà bị sập, đổ, trôi hoàn toàn; 10 triệu đồng/hộ có nhà bị hư hỏng nặng).
Bộ trưởng đồng tình với ý kiến một số đại biểu đề xuất rà lại dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản năm 2021 và giai đoạn 2021-2025, và cần ưu tiên gói đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vùng bị thiệt hại nặng do thiên tai, bão lũ.
Đề xuất Quốc hội cho phép tăng bội chi năm 2020
Trong điều kiện thu NSNN giảm, một số khoản chi phát sinh tăng lớn, nên để bảo đảm cân đối NSNN, theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, một mặt yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục tiết kiệm chi: đã cắt tối thiểu 70% công tác phí trong nước, nước ngoài, tiết kiệm thêm 10% kinh phí thường xuyên ngoài lương và các khoản tiết kiệm khác (được khoảng 17,4 nghìn tỷ đồng). Mặt khác, Chính phủ đề xuất Quốc hội cho phép tăng bội chi NSNN năm 2020 từ khoảng 95 - 133,5 nghìn tỷ đồng, tương ứng tỷ lệ bội chi khoảng 4,99 - 5,59% GDP. Với khoảng này thì nợ công ước khoảng 56,8 - 57,4% GDP.
Về đánh giá Kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm 2016 - 2020, Bộ trưởng nêu rõ, kết quả thực hiện phát triển KT-XH và NSNN năm 2020 ảnh hưởng lớn đến kết quả thực hiện Kế hoạch 5 năm 2016-2020. Về kinh tế, nếu tăng trưởng GDP 2020 đạt 2-3%, thì bình quân 5 năm 2016 - 2020 đạt 5,8 - 5,9%, trong khi chỉ tiêu kế hoạch là 6,5 - 7%. Về NSNN, dự kiến thu NSNN năm 2020 giảm khoảng 190 nghìn tỷ đồng so với dự toán, nên thu 5 năm ước giảm khoảng 150 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, Bộ trưởng cho rằng, đến nay chúng ta cơ bản đạt được các mục tiêu về tài chính - ngân sách theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 25 của Quốc hội. Cụ thể, tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 24,5% (kế hoạch là 23,5%); cơ cấu thu - chi chuyển dịch tích cực; tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng từ mức 68% của giai đoạn 2011 - 2015 lên 80,9% giai đoạn 2016 - 2019 và ước đạt 84,3% trong năm 2020 (mục tiêu là 84 - 85%). Bố trí tỷ trọng dự toán chi đầu tư phát triển tăng dần lên mức 26,9% trong năm 2020; thực tế thực hiện ước đạt 27 - 28% (mục tiêu là 25 - 26%). Tỷ trọng chi thường xuyên giảm xuống 60,5% trong dự toán 2020 (mục tiêu thấp hơn 64%) trong khi vẫn đảm bảo nguồn thực hiện điều chỉnh lương cơ sở, các nhiệm vụ quan trọng quốc phòng an ninh, an sinh xã hội, và phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Tỷ lệ bội chi NSNN khoảng 3,8% GDP (mục tiêu cả giai đoạn là thấp hơn 3,9% GDP); nợ công giảm từ mức 63,7% GDP năm 2016 xuống 55% năm 2019 và 56,8% năm 2020.
Liên quan đến các chỉ tiêu về chất lượng nợ công, Bộ trưởng khẳng định, thời gian qua “đã được cải thiện rất lớn”. Tốc độ tăng nợ công giai đoạn 2011-2015 là 18,1%, bằng khoảng 3 lần tăng trưởng kinh tế; thì đến giai đoạn 2016-2019 giảm chỉ còn 6,8%/năm, tương đương tốc độ tăng trưởng kinh tế (riêng năm 2020 ước tăng khoảng 10% so với năm 2019). Cơ cấu nợ vay trong nước/vay nước ngoài được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn, tăng vay trong nước; kỳ hạn phát hành, kỳ hạn danh mục trái phiếu Chính phủ được tăng lên trong khi lãi suất vay giảm sâu , góp phần bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
Bộ trưởng đồng ý với ý kiến đại biểu là mặc dù tỷ lệ nợ công so GDP thời gian qua có giảm, nhưng quy mô nợ số tuyệt đối vẫn tăng, nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi so với tổng thu NSNN năm nay và một vài năm tới tăng cao, khối lượng phải huy động hằng năm lớn, tạo rủi ro về an ninh tài chính. Điều này, một mặt đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quyết liệt cơ cấu lại NSNN và nợ công theo hướng bền vững hơn, mặt khác phải nâng cao hơn nữa hiệu quả đồng vốn chúng ta vay về cho đầu tư phát triển.
Tiếp tục duy trì mục tiêu kép trong năm 2021 
Về dự toán NSNN năm 2021, Bộ trưởng cho biết, mặc dù có nhiều dự báo tích cực, nhưng chúng tôi cho rằng sự phục hồi kinh tế thế giới và khu vực phụ thuộc vào khả năng kiểm soát dịch Covid-19. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản như: ổn định chính trị; môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện; cơ hội đến từ các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (EVFTA); sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và Nhân dân cả nước…
Nhưng bên cạnh đó, theo Bộ trưởng, trong năm tới vẫn phải yêu cầu duy trì mục tiêu kép, vừa tập trung cho công tác phòng chống dịch, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế trong bối cảnh tác động của biến động chính trị - kinh tế thế giới, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ngày càng lớn. Trên cơ sở đánh giá sát khả năng thu ngân sách của từng địa phương năm 2020, dự báo kinh tế thế giới; dự kiến dự toán thu ngân sách trên cơ sở GDP tăng 6%, lạm phát dưới 4%, giá dầu 45 USD/thùng.
Mặt khác, tác động của đại dịch Covid-19 đến phát triển KT-XH và NSNN không chỉ dừng trong năm 2020, mà sẽ còn sang năm 2021, thậm chí có thể một số năm tiếp theo. Kinh nghiệm các năm 2012 – 2013 - 2014, khi kinh tế suy giảm thì tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất kinh doanh này chỉ bằng 1/2 tốc độ tăng trưởng GDP. Trên cơ sở đó, sau khi làm việc với các địa phương, chúng tôi dự kiến tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất kinh doanh năm 2021 là 5,6% so với ước thực hiện năm 2020, là mức khá tích cực trong điều kiện còn nhiều rủi ro.
Tuy nhiên, dự toán thu NSNN năm 2021 là 1,34 triệu tỷ đồng (giảm gần 170 nghìn tỷ đồng so với dự toán năm 2020); tỷ lệ huy động vào NSNN là 15,5% GDP; trong đó, từ thuế phí là 13% GDP điều chỉnh (tương ứng 19,7% và 16,6% GDP chưa điều chỉnh).
Trước tình hình trên, để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội và kích cầu trong nước, Chính phủ đề xuất bội chi NSNN năm 2021 là 4%GDP (tương ứng là 5% GDP chưa điều chỉnh), tăng 1,5% so với dự toán 2020 (tăng thêm 109 nghìn tỷ đồng). Bội chi NSNN chỉ dành cho đầu tư phát triển (không dành cho chi thường xuyên). Khi đó nợ công 2021 là 46,1% GDP điều chỉnh (tương ứng 58,6% GDP chưa điều chỉnh).
Tổng hợp dự toán thu 2021 và bội chi 2021, thì tổng chi NSNN năm 2021 vẫn giảm khoảng 60 nghìn tỷ đồng so với dự toán năm 2020 và dự kiến bố trí như sau: Ưu tiên bố trí tăng chi cho đầu tư phát triển để đạt tỷ trọng 28,3% tổng chi NSNN (dự toán 2020 là 26,9%). Bố trí trả nợ lãi và dự phòng theo quy định của Luật NSNN. Dành nguồn ưu tiên cho các Chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó ưu tiên thực hiện các chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Khi đó, chi thường xuyên năm 2021 giảm 56 nghìn tỷ đồng so với dự toán năm 2020.
Vì vậy, yêu cầu trong năm 2021, “chúng ta phải triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; đồng thời, thực hiện đồng bộ có hiệu quả các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội về tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế; đẩy mạnh xã hội hóa đơn vị sự nghiệp công lập”, Bộ trưởng nói.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thu ngân sách nhà nước
Về dự kiến Kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm giai đoạn 2021 - 2025: Trên cơ sở dự toán NSNN năm 2021 trình Quốc hội, mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021-2025 bình quân 6,5-7%, Chính phủ dự kiến tổng thu NSNN cả giai đoạn khoảng 7,8 triệu tỷ đồng, gấp 1,1 - 1,2 lần so với giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ huy động vào NSNN bình quân khoảng 15-16% GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 13-14%, giảm so với giai đoạn 2016-2020 là 24,5% và 20,4% GDP. Chủ yếu do từ năm 2021, chúng ta điều chỉnh quy mô GDP tăng khoảng 25-27% so với mức hiện hành (nếu tính theo GDP hiện hành thì mức huy động vào NSNN giai đoạn này khoảng 19-20%, trong đó từ thuế, phí khoảng 16-17%). Bên cạnh đó, giai đoạn tới dự kiến thu từ đất và hoạt động xuất nhập khẩu cơ bản ngang bằng giai đoạn 2016-2020, thu từ dầu thô chỉ bằng 1/2 của giai đoạn 2016-2020 và chỉ chiếm 3,3% GDP điều chỉnh của giai đoạn 2021-2025. Mặc dù vậy, mức độ huy động từ thuế, phí bình quân 5 năm tới đạt 13-14% GDP điều chỉnh, cơ bản tương ứng với mức huy động của các nước ASEAN-5.
Cơ cấu thu tiếp tục được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa bình quân chiếm 85-86% tổng thu NSNN, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 12,7% và thu từ dầu thô chiếm còn 1,4% tổng thu NSNN (giai đoạn 2011-2015, thu dầu thô chiếm 12,7%, giai đoạn 2016-2020 còn 3,6% tổng thu NSNN).
Kế hoạch 2021-2025 được dự kiến trên tinh thần phấn đấu rất tích cực, tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất kinh doanh bình quân là 8%/năm (giai đoạn 2023 - 2025 là 10%/năm) trong bối cảnh tiềm ẩn nhiều rủi ro của kinh tế thế giới, đại dịch Covid-19, cạnh tranh giữa các nước lớn.
Trong nước, bên cạnh các yếu tố thuận lợi còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về thiên tai, dịch bệnh. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và giảm dần bội chi NSNN, chúng tôi kiến nghị tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thu NSNN gắn với cải cách lại NSNN theo hướng bao quát các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới phù hợp với thông lệ quốc tế. Bảo đảm tỷ trọng thu nội địa, tỷ trọng giữa thuế trực thu và thuế gián thu ở mức hợp lý; khai thác tốt thuế tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường; hạn chế tối đa việc lồng ghép các chính sách an sinh xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế - bảo đảm tính trung lập của thuế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư phát triển.
Đồng thời, cũng phải tiếp tục xây dựng chính sách phân cấp ngân sách để đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương trong điều kiện 2 khoản thu ngân sách Trung ương được hưởng 100% là thu từ dầu thô chỉ bằng 1/2 và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu cơ bản đi ngang so với giai đoạn 2016 - 2020. Cần nghiên cứu giảm dần cơ chế lồng ghép ngân sách để bảo đảm tính chủ động của các địa phương.
Về chi NSNN, dự kiến 5 năm tới tổng số là 9,7 triệu tỷ đồng, gấp 1,3 lần giai đoạn 2016-2020; trong đó, chi đầu tư phát triển 2,75 triệu tỷ đồng, chiếm 27-28% tổng chi NSNN, nhằm hỗ trợ nền kinh tế khôi phục sau đại dịch Covid-19. Chi thường xuyên triệt để tiết kiệm, đảm bảo cho các chế độ, chính sách chi cho con người, chi an ninh – quốc phòng, chi phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các dịch vụ công thiết yếu. Đồng thời, quyết liệt thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội về sắp xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đẩy mạnh đổi mới khu vực sự nghiệp công thì chi thường xuyên bình quân còn lại khoảng 62-63% tổng chi NSNN. Bội chi NSNN bình quân giai đoạn tới khoảng 3,7% GDP và giảm dần, trong đó năm 2021 dự kiến 4% GDP và đến năm 2025 giảm còn 3,4% GDP. Nợ công đến năm 2025 ước khoảng 47,5% GDP điều chỉnh (khoảng 60,4 GDP chưa điều chỉnh). Tổng mức vay của NSNN giai đoạn 2021-2025 là 3,18 triệu tỷ đồng; trong đó: vay bù đắp bội chi là 1,9 triệu tỷ đồng, vay trả nợ gốc đến hạn là 1,27 triệu tỷ đồng. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ có năm có thể vượt 25% tổng thu NSNN và là rủi ro trong việc huy động vốn hàng năm để bù đắp bội chi và trả nợ gốc của Chính phủ.