Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, về cơ chế, chính sách cổ phần hóa, thoái vốn, thời gian vừa qua cũng đã được sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh theo hướng chặt chẽ hơn, tăng cường công khai, minh bạch hơn trong quá trình cổ phần hóa và tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa, hoàn thành việc xác lập hồ sơ quản lý về đất đai, tài sản trước khi cổ phần hóa. Do đó, việc rà soát, phê duyệt phương án cổ phần hóa doanh nghiệp phải thực hiện nhiều quy trình, thủ tục và nhiều thời gian, đặc biệt là vấn đề về đất đai, lịch sử, pháp lý rất phức tạp. Đơn cử như Tổng công ty Lương thực miền Bắc có rất nhiều các cơ sở nhà đất.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn cơ cấu lại trong giai đoạn này hầu hết là doanh nghiệp lớn, có tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai hoặc các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực công ích, gắn liền với hoạt động của các địa phương, đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện chiến lược, mục tiêu về an sinh xã hội của địa phương nên việc cổ phần hóa, thoái vốn phải tiến hành thận trọng, bảo đảm tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp và không làm thất thoát vốn của Nhà nước khi cổ phần hóa.
Về những nguyên nhân chủ quan, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, phải nghiêm túc xem xét điều chỉnh để nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa trong thời gian tới. Thứ nhất, trong tổ chức thực hiện một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng.
Thứ hai, công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn để trình cơ quan có thẩm quyền ban hành danh mục cổ phần hóa, thoái vốn chưa sát với thực tế.
Thứ ba, vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, rồi tính công khai, minh bạch, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn.
Thứ tư, đa số các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp không chủ động triển khai các chính sách của Nhà nước. Đến khi phải thực hiện cổ phần hóa mới bắt đầu thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà đất, do đó ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ cổ phần hóa.
Thứ năm, việc phối hợp giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu với các UBND các tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định theo Nghị định 167 của Chính phủ còn chưa tốt, tiến độ phê duyệt còn rất chậm, đặc biệt là các cơ sở nhà, đất tại thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
"Nguyên nhân nữa là doanh nghiệp không muốn thoái vốn ở những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất lợi nhuận cao, làm cho tiến độ thoái vốn chậm, tuy đã được quy định rõ trong tiêu chí phân loại doanh nghiệp của Thủ tướng. Một số cơ quan, đơn vị đang thoái vốn đang bị cơ quan pháp luật thực hiện thanh tra, kiểm tra nên phải chậm lại để thực hiện các nội dung này." - Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết.
Về các giải pháp trong thời gian tới, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đề xuất: Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao doanh nghiệp Nhà nước theo chủ trương của Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý về tổ chức, quản lý và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước về sắp xếp việc cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng bảo đảm công khai, minh bạch theo cơ chế thị trường. Thứ ba, cần phải xây dựng tiêu chí phân loại doanh nghiệp cho giai đoạn 2021 - 2025 và đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước của giai đoạn 2021 - 2025, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty nhà nước, làm cơ sở tiếp tục triển khai cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, các cơ quan quản lý nhà nước căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, kịp thời nghiên cứu, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa. Thứ năm, tăng cường công tác chấp hành kỷ luật, kỷ cương và xử lý nghiêm những người có sai phạm, xử lý nghiêm những người chậm tiến độ.
Cũng trong phiên chất vấn, trả lời câu hỏi của đại biểu Cao Văn Trọng (Đoàn tỉnh Bến Tre) liên quan đến việc điều chỉnh thuế suất thuế giá trị gia tăng mặt hàng phân bón, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, trước ngày 1/1/2015, theo đề nghị của Bộ NN và PTNT, để tháo gỡ khó khăn cho nông dân, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội điều chỉnh phân bón từ đối tượng chịu thuế suất nóng giá trị gia tăng là 5% về đối tượng không chịu thuế suất giá trị gia tăng và các hàng hóa mua vào hoặc nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án đầu tư sản xuất phân bón được khấu trừ hoặc hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không nhất trí cho phép khấu trừ hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, với lý do không phù hợp với nguyên tắc của thuế giá trị gia tăng. Do vậy, Quốc hội đã thông qua Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế, có hiệu lực từ 1/1/2015, quy định phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng. Trên thực tế, việc quy định không chịu thuế giá trị gia tăng của phân bón gây bất lợi cho sản xuất phân bón trong nước, do hoàn thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ mua vào không được khấu trừ và phải tính vào chi phí sản xuất, vào giá thành sản xuất của phân bón cũng như giá bán, trong khi phân bón nhập khẩu không chịu thuế giá trị gia tăng. Chính vì vậy, theo đề nghị của Bộ Công thương, Bộ NN và PTNT, Hiệp hội Sản xuất phân bón đã kiến nghị nhiều lần kể từ khi Luật số 71 có hiệu lực đến nay là đưa phân bón vào cái đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng.
Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, đến nay, nếu chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng sang đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng là 5%, trong khi số thuế giá trị gia tăng đầu vào hàng năm của phân bón khoảng 1.200 tỷ đồng thì doanh nghiệp sẽ được khấu trừ và không phải tính vào chi phí sản xuất cũng như giá thành sản phẩm của phân bón.
"Chính phủ sẽ chỉ đạo các doanh nghiệp sản xuất bón trong nước giảm giá bán tương ứng với giá thành, để nông dân không bị ảnh hưởng bởi sự điều chỉnh của luật về mức thuế giá trị gia tăng này. Do đó, phân bón sản xuất trong nước có thêm điều kiện để cạnh tranh với phân bón nhập khẩu; và phân bón nhập khẩu cũng phải chịu thuế giá trị gia tăng là 5%. Từ đó, phân bón sản xuất trong nước có thêm cơ hội để hạ giá thành, hạ giá bán so với phân bón nhập khẩu theo cơ chế thị trường." - Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nói.
Theo thông tin từ Hiệp hội phân bón Việt Nam, phân bón sản xuất trong nước đang chiếm thị phần khoảng 70%, còn lại 30% là phân bón nhập khẩu. Việc điều chỉnh thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với phân bón sẽ tạo cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước có dư địa để tăng công suất, tăng sản lượng và thị phần cạnh tranh với phần nhập khẩu. Bên cạnh việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất trong nước bằng chính sách thuế, cũng yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón trong nước cần tăng cường quản trị, rà soát, tiết giảm tối đa chi phí, từ đó giảm giá thành và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa nhập khẩu.
Chính vì thế, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng khẳng định: “Chúng tôi báo cáo và Chính phủ dự thảo Nghị quyết để báo cáo với Quốc hội về chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng sang áp dụng thuế suất 5% và đã nhận được ý kiến kiến nhất trí của Bộ Công thương, Bộ NN và PTNT, Hiệp hội sản xuất phân bón cũng như Hội Nông dân Việt Nam - những cơ quan, tổ chức trực tiếp liên quan đến ngành sản xuất phân bón, nông nghiệp, nông dân và nông thôn”.