Đó là các ý kiến tại "Hội thảo tác động của COP26 đến chuyển dịch năng lượng theo hướng tăng trưởng xanh", do Bộ KH&ĐT và Bộ Công Thương tổ chức ngày 17/8.
Thách thức về tài chính
Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An cho biết, dự báo, nhu cầu năng lượng và nhu cầu điện của Việt Nam trong những năm tới tiếp tục tăng nhanh. Song song với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng, Việt Nam cũng đang xây dựng chương trình chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ tới năm 2050.
Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu COP26 được tổ chức tại Glasgow (Vương quốc Anh) vào tháng 11/2021, Việt Nam đã đưa ra cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Để thực hiện các cam kết, Việt Nam cần thêm (giá năm 2020) khoảng 100 tỷ USD cho thích ứng biến đổi khí hậu, 373 tỷ USD để đưa mức phát thải về “0” vào năm 2050.
Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) Hoàng Tiến Dũng cho biết, đến năm 2045, công suất nguồn điện than đã giảm khoảng 23.400MW, công suất nguồn điện sử dụng LNG giảm khoảng 24.350MW, trong khi đó điện mặt trời tăng 33.000MW, điện gió trên bờ tăng khoảng 23.000MW và điện gió ngoài khơi tăng 28.500MW. Các nguồn điện tái tạo khác cũng tăng đáng kể.
“Nhờ việc phát triển mạnh năng lượng tái tạo, chuyển đổi nhiên liệu của các nhà máy nhiệt điện nên lượng phát thải CO2 của phương án phát triển điện lực rà soát sau COP26 đã giảm mạnh” - ông Hoàng Tiến Dũng nói.
Phát thải CO2 sẽ đạt đỉnh vào giai đoạn 2031 - 2035 ở mức 231 triệu tấn, sau đó giảm dần. Đến năm 2045, lượng phát thải CO2 giảm xuống khoảng 175 triệu tấn, nghĩa là giảm khoảng 208 triệu tấn CO2 so với các phương án trước COP26. Đến năm 2050, ước tính phát thải CO2 từ lĩnh vực sản xuất điện còn khoảng 40 triệu tấn/năm, góp phần đáp ứng việc cam kết của Việt Nam tại COP26 về phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Nguyễn Thị Bích Ngọc đánh giá, vấn đề lớn nhất ở đây chính là nguồn lực thực hiện. Về tổng thể, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam vừa mới công bố (CCDR) cho thấy, tổng nhu cầu tài chính tăng thêm của Việt Nam để xây dựng khả năng chống chịu và khử các bon, hướng tới phát thải ròng bằng “0” có thể lên tới 368 tỷ USD trong giai đoạn 2022 - 2040, hay xấp xỉ 6,8% GDP mỗi năm.
Trong đó, riêng lộ trình xây dựng khả năng chống chịu sẽ chiếm khoảng 2/3 số tiền này, vì cần huy động lượng vốn đáng kể để bảo vệ tài sản và cơ sở hạ tầng cũng như những người dân dễ bị tổn thương. Chi phí của lộ trình khử các bon chủ yếu phát sinh từ ngành năng lượng, gồm chi phí đầu tư vào năng lượng tái tạo và quản lý quá trình chuyển dịch ra khỏi năng lượng than, có thể tiêu tốn khoảng 64 tỷ USD từ năm 2022 đến năm 2040.
Phải có cam kết hỗ trợ quốc tế
Theo Thứ trưởng Đặng Hoàng An, chuyển dịch năng lượng không chỉ là vấn đề của nội bộ ngành năng lượng, mà chính là chuyển đổi toàn bộ nền kinh tế từ mô hình thâm dụng nhiều năng lượng sang mô hình sử dụng năng lượng một cách hiệu quả.
Các tính toán của Bộ Công Thương cho thấy, nhu cầu điện và năng lượng tiếp tục tăng trưởng cao là thách thức lớn. Vì vậy, xây dựng chiến lược phát triển và chuyển dịch năng lượng phù hợp, khả thi, bền vững, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước là nhiệm vụ có tính quan trọng bậc nhất.
“Tôi muốn lưu ý tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc hợp tác nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ năng lượng trên phạm vi toàn cầu (đặc biệt là công nghệ sản xuất điện năng quy mô lớn từ các nguồn năng lượng sơ cấp mới như Hydro, Amoniac, công nghệ lưu trữ năng lượng tiên tiến, công nghệ hấp thụ và lưu trữ CO2,...). Đồng thời, phải nâng cao nhận thức về tính cấp bách của việc sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế ” - ông Đặng Hoàng An nói.
Về vấn đề, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc gợi mở, trong quá trình chuyển dịch năng lượng, trước tiên cần tính toán kỹ lưỡng lộ trình để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
"Quá trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững là trách nhiệm của tất cả các bên liên quan từ T.Ư đến địa phương, các ngành, các cấp, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng người dân" - bà Nguyễn Thị Bích Ngọc nhấn mạnh. Do đó, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân và doanh nghiệp về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; hướng đến tiêu dùng xanh, lối sống xanh, sử dụng các sản phẩm/dịch vụ thân thiện với môi trường.
Một yếu tố quan trọng khác được Thứ trưởng Bộ KH&ĐT đề cập tới, Việt Nam muốn thành công cần phải có sự cam kết hỗ trợ về mặt tài chính, kỹ thuật thực sự từ các quốc gia phát triển. Thực tế, đóng góp phát thải khí nhà kính của Việt Nam rất nhỏ, chỉ khoảng 0,8% so với tổng lượng phát thải của toàn cầu. Do vậy, trong thời gian tới Việt Nam mong muốn nhận được hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật một cách thỏa đáng từ các đối tác phát triển để triển khai thành công lộ trình chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, bền vững.