Chất thải y tế và sức khỏe cộng đồng

PGS.TS Nguyễn Huy Nga
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Rác thải y tế đã và đang là vấn đề quan tâm của toàn xã hội nói chung và của ngành y tế, môi trường nói riêng. Chất thải y tế tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro lây nhiễm các mầm bệnh hoặc gây nguy hại cho người bệnh, nhân viên y tế, công nhân vệ sinh môi trường thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải, cộng đồng và môi trường nếu không được quản lý theo đúng cách.

Nhiều nguy cơ từ chất thải y tế
Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý môi trường Y tế (Bộ Y tế), năm 2015, cả nước có 13.511 cơ sở y tế bao gồm các cơ sở khám chữa bệnh và dự phòng từ tuyến T.Ư đến địa phương, trong đó có hơn 1.500 bệnh viện. Lượng chất thải rắn y tế phát sinh năm 2015 vào khoảng 450 tấn/ngày, trong đó 47 tấn là chất thải y tế nguy hại và đến năm 2020 là khoảng 800 tấn/ngày. Trong đại dịch Covid-19, lượng rác thải phát sinh càng tăng mạnh, không chỉ từ bệnh viện điều trị bệnh nhân nhiễm Covid-19 mà còn từ các khu cách ly tập trung, các bệnh viện dã chiến. Tại TP Hồ Chí Minh vừa qua, khi dịch Covid-19 lan rộng, lượng rác thải y tế hàng ngày lên tới trên 80 tấn.
 Thu gom rác thải y tế trong khu cách ly tại huyện Mê Linh. Ảnh: Phạm Hùng
Chất thải rắn y tế, theo Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT ngày 31/12/2015 của liên Bộ Y tế và Bộ TN&MT, được phân loại thành chất thải y tế thông thường và chất thải y tế nguy hại. Trong loại chất thải y tế nguy hại có chất thải lây nhiễm và không lây nhiễm. Chất thải lây nhiễm là loại chất thải chứa các mầm bệnh (vi khuẩn, virus, ký sinh trùng hoặc nấm) có khả năng gây bệnh cho con người. Chất thải lây nhiễm bao gồm chất thải lây nhiễm sắc nhọn là chất thải lây nhiễm có thể gây ra các vết cắt hoặc xuyên thủng bao gồm kim tiêm, bơm liền kim tiêm, đầu sắc nhọn của dây truyền, kim chọc dò, kim châm cứu, lưỡi dao mổ, đinh, cưa dùng trong phẫu thuật và các vật sắc nhọn khác. Chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao bao gồm mẫu bệnh phẩm, dụng cụ đựng, dính mẫu bệnh phẩm, chất thải dính mẫu bệnh phẩm phát sinh từ các phòng xét nghiệm an toàn sinh học cấp III trở lên. Chất thải giải phẫu bao gồm mô, bộ phận cơ thể người thải bỏ và xác động vật thí nghiệm.

Theo một nghiên cứu gần đây, tổng lượng chất thải y tế phát sinh tại mỗi bệnh viện trung bình là 1,77 ± 0,90kg/giường bệnh/ngày, trong đó lượng chất thải y tế thông thường chiếm tỷ trọng cao nhất (1,53 ± 0,83kg/giường bệnh/ngày), tiếp đến là chất thải y tế lây nhiễm (0,22 ± 0,15kg/giường bệnh/ngày), thấp nhất là chất thải y tế nguy hại không lây nhiễm (0,02 ± 0,04kg/giường/ngày).

Trong thành phần của chất thải lây nhiễm có thể chứa đựng một lượng lớn các tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm như tụ cầu, HIV, viêm gan B, virus SARS-CoV-2. Các tác nhân truyền nhiễm có thể xâm nhập vào cơ thể người thông qua da (vết trầy xước, vết đâm xuyên hoặc vết cắt trên da), các niêm mạc (màng nhầy), đường hô hấp (do xông, hít phải), đường tiêu hóa (do nuốt hoặc ăn phải).

Mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng chất thải hóa học và dược phẩm có thể gây ra các nhiễm độc cấp, mãn tính, chấn thương và bỏng. Hóa chất độc hại và dược phẩm ở các dạng dung dịch, sương mù, hơi, có thể xâm nhập vào cơ thể qua đường da, hô hấp, tiêu hóa gây bỏng, tổn thương da, mắt, màng nhầy đường hô hấp và các cơ quan trong cơ thể như gan, thận.

Các chất khử trùng, thuốc tẩy như clo, các hợp chất natri hypoclorua có tính ăn mòn cao. Thủy ngân khi xâm nhập vào cơ thể có thể liên kết với những phân tử như axit nucleic, protein… làm biến đổi cấu trúc và ức chế hoạt tính sinh học của tế bào. Nhiễm độc thủy ngân có thể gây thương tổn thần kinh với triệu chứng run rẩy, khó diễn đạt, giảm sút trí nhớ và nặng hơn nữa có thể gây liệt, nghễnh ngãng, với liều lượng cao có thể gây tử vong.

Chất gây độc tế bào có trong chất thải y tế các cơ sở điều trị ung thư có thể xâm nhập vào cơ thể con người bằng các con đường như tiếp xúc trực tiếp, hít phải bụi và các sol khí, qua da, đường tiêu hóa, tiếp xúc trực tiếp với chất thải dính thuốc gây độc tế bào, tiếp xúc với các chất tiết ra từ người bệnh đang được điều trị bằng hóa trị liệu.

Giải pháp hạn chế rủi ro

Để triệt tiêu ảnh hưởng lên sức khỏe của chất thải y tế, tiêu diệt các mầm bệnh nguy hại hiện nay, các cơ sở y tế đang áp dụng nhiều biện pháp xử lý. Thông dụng nhất là dùng nồi hấp, lò vi sóng, thiêu đốt và chôn lấp.

Nồi hấp tại các bệnh viện hoặc tại các khu xử lý tập trung có khả năng xử lý nhiều loại chất thải lây nhiễm, các dụng cụ dính máu hoặc dịch cơ thể, chất thải từ phòng điều trị cách ly, chất thải phẫu thuật, chất thải phòng xét nghiệm (trừ chất thải hóa học) và chất thải “mềm” (bao gồm băng, gạc, chăn, gối, màn, đệm, ga trải giường và quần áo) từ chăm sóc bệnh nhân. Hiện trên thị trường có rất nhiều loại nồi hơi xử lý rác thải y tế được giới thiệu từ quy mô lớn phù hợp với các cụm xử lý chất thải đến quy mô nhỏ phù hợp với các trạm y tế xã.
Tại Hà Nội, Công ty Vật tư thiết bị môi trường 13 (Urenco 13) cũng đã được trang bị một dây chuyền xử lý rác thải y tế rắn tập trung bằng công nghệ hấp nhiệt ướt. Chất thải sau khi xử lý bằng nồi hấp, nếu có yêu cầu sẽ được xử lý cơ học như băm hoặc nghiền, sau đó đem đi xử lý chung với chất thải đô thị. Băm nhỏ sẽ làm chất thải giảm thể tích từ 60 - 80%.

Công nghệ vi sóng có khả năng xử lý được nhiều loại chất thải lây nhiễm, bao gồm cả các dụng cụ dính máu hoặc dịch cơ thể, chất thải từ phòng điều trị cách ly, chất thải phẫu thuật, chất thải phòng xét nghiệm (trừ chất thải hóa học) và chất thải “mềm" từ chăm sóc bệnh nhân. Đây là công nghệ xử lý chất thải y tế thân thiện với môi trường. Trong dự án của Ngân hàng Thế giới hỗ trợ xử lý chất thải bệnh viện ở Việt Nam, rất nhiều bệnh viện tuyến tỉnh và huyện đã được trang bị công nghệ này. Chất thải y tế nguy hại sau khi xử lý bằng lò vi sóng được coi là chất thải thông thường và xử lý cùng với chất thải sinh hoạt.

Thiêu đốt là quá trình oxy hóa khô nhiệt độ cao và kết quả là tiêu diệt hết mầm bệnh, giảm đáng kể thể tích và trọng lượng chất thải. Nhược điểm của công nghệ thiêu đốt là làm phát sinh các chất khí, bụi vào môi trường không khí và tro xỉ. Chất thải y tế khi đốt cháy tạo ra khí thải chứa hơi nước, carbon dioxide (CO), nitrogen oxide (NOx), các chất dễ bay hơi (kim loại, axit halogen, các sản phẩm của quá trình đốt cháy không hoàn toàn), bụi và tro xỉ. Đây được coi là công nghệ không thân thiện với môi trường. Hiện nay tại các nước ở châu Âu công nghệ đốt chất thải y tế đã bị cấm.

Các cơ sở y tế ở vùng sâu, vùng xa, trạm y tế xã không có điều kiện xử lý bằng công nghệ, thì chôn lấp an toàn chất thải tại cơ sở y tế là giải pháp được lựa chọn để thực hiện. Tuy nhiên, việc chôn lấp phải được cơ quan có thẩm quyền quản lý môi trường chấp thuận. Đối với các loại chất thải y tế nguy hại không lây nhiễm như dược phẩm quá hạn, hóa chất độc, chất chứa kim loại nặng thì cơ sở y tế thường phải ký hợp đồng với công ty môi trường đô thị hoặc đơn vị đã được ngành TN&MT cấp phép để xử lý riêng.
Các đối tượng chịu ảnh hưởng của chất thải y tế là cán bộ, nhân viên y tế như bác sĩ, y sĩ, y tá, kỹ thuật viên, hộ lý, sinh viên thực tập công nhân vận hành các công trình xử lý chất thải, nhân viên của đơn vị hoạt động trong cơ sở y tế như nhân viên công ty vệ sinh công nghiệp, nhân viên giặt là, người liên quan đến bãi chôn lấp chất thải và người nhặt rác tại các bãi rác…

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần