Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Có thể tạo ra gần 300 triệu việc làm vào năm 2035

Trần Oanh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Việc thu hẹp những lỗ hổng hiện hữu trong dịch vụ chăm sóc có thể tạo ra gần 300 triệu việc làm và duy trì khả năng chăm sóc liên tục, từ đó góp phần giảm nghèo thúc đấy bình đẳng giới và hỗ trợ chăm sóc cho trẻ em và người cao tuổi.

Ngày 7/3, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam thông tin, Báo cáo Chăm sóc trong lao động: Đầu tư vào chế độ nghỉ và các dịch vụ chăm sóc vì một thế giới việc làm bình đẳng hơn về giới, của ILO cho thấy, khoảng 30% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, tương đương với 649 triệu phụ nữ, không được hưởng đầy đủ chế độ thai sản đáp ứng được những yêu cầu chính của Công ước Bảo vệ Thai sản ILO năm 2000.

Báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế chỉ ra, việc thu hẹp những lỗ hổng hiện hữu trong dịch vụ chăm sóc có thể tạo ra gần 300 triệu việc làm và duy trì khả năng chăm sóc liên tục. Ảnh: Phạm Hùng.
Báo cáo của Tổ chức Lao động Quốc tế chỉ ra, việc thu hẹp những lỗ hổng hiện hữu trong dịch vụ chăm sóc có thể tạo ra gần 300 triệu việc làm và duy trì khả năng chăm sóc liên tục. Ảnh: Phạm Hùng.

Công ước quy định thời gian nghỉ tối thiểu là 14 tuần được hưởng ít nhất hai phần ba mức thu nhập trước đó từ nguồn bảo hiểm xã hội hoặc công quỹ. Nghiên cứu cho biết, 82 trên 185 quốc gia được khảo sát không đáp ứng được các tiêu chuẩn nêu trên, mặc dù “nghỉ thai sản được hưởng lương hoặc bảo vệ thai sản là quyền lao động và là quyền của tất cả mọi người”. Với tốc độ cải cách như hiện nay, sẽ mất ít nhất 46 năm để đạt được quyền nghỉ thai sản tối thiểu ở các quốc gia nghiên cứu; điều đó đồng nghĩa với việc sẽ không đạt được mục tiêu liên quan của Mục tiêu Phát triển Bền vững năm 2030 của Liên Hợp Quốc.

Báo cáo còn chỉ ra, hơn 1,2 tỷ nam giới trong độ tuổi sinh sản đang sống ở các quốc gia không được hưởng chế độ thai sản cho nam giới. Trường hợp có quy định chế độ thai sản cho nam giới thì thời gian nghỉ vẫn ngắn – mức trung bình trên toàn cầu là 9 ngày – tạo nên một “khoảng cách nghỉ theo giới” lớn. Tỉ lệ nam giới nghỉ hưởng chế độ thai sản cũng ở mức thấp, chính là hệ quả của tiền hỗ trợ chế độ thai sản thấp, của các chuẩn tắc về giới và thiết kế chính sách.

Chỉ 40 quốc gia được khảo sát cho thấy phụ nữ mang thai hoặc trong thời kỳ cho con bú có quyền được bảo vệ trước những công việc nguy hiểm hoặc không lành mạnh, phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO. Chỉ có 53 quốc gia quy định quyền được nghỉ làm được hưởng lương để khám sức khỏe trước khi sinh. Và, vẫn còn nhiều quốc gia chưa đảm bảo được thời gian nghỉ, an ninh thu nhập và các điều kiện thích hợp cho việc nuôi con bằng sữa mẹ.

Hiện nay nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi và người khuyết tật cũng đang tăng mạnh do tuổi thọ tăng và tác động của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy trên toàn thế giới đa phần những người có nhu cầu dịch vụ như chăm sóc nội trú, dịch vụ cộng đồng ban ngày và chăm sóc tại nhà vẫn không tiếp cận được dịch vụ.

Báo cáo cũng chỉ ra “một mức đầu tư lớn” nhằm tạo ra một gói chính sách về chăm sóc mang tính chuyển đổi đối với tiền đề là tiếp cận toàn dân sẽ là một định hướng đột phá để xây dựng một thế giới việc làm tốt đẹp hơn và bình đẳng hơn về giới. Không chỉ vậy, đầu tư nhằm đảm bảo bình đẳng giới trong nghỉ phép, dịch vụ chăm sóc trẻ em phổ quát và các dịch vụ chăm sóc dài hạn có thể tạo ra tới 299 triệu việc làm vào năm 2023.

Để thu hẹp những khoảng cách chính sách này đến năm 2035 sẽ đòi hỏi một khoản đầu tư hằng năm là 5,4 nghìn đô la Mỹ (tương đương với 4,2% tổng GDP hằng năm), nguồn vốn đầu tư này có thể phần nào huy động bằng cách tăng thuế thu nhập từ các khoản thu nhập và việc làm tăng thêm.

Vụ trưởng Vụ Điều kiện Làm việc và Bình đẳng của ILO Manuela Tomei cho rằng, chúng ta cần phải suy nghĩ lại về cách thức mà chúng ta ban hành các chính sách và cung cấp dịch vụ chăm sóc để làm thế nào hình thành một chuỗi dịch vụ chăm sóc liên tục nhằm mang lại cho trẻ em một khởi đầu thuận lợi, hỗ trợ phụ nữ duy trì việc làm và tránh để mặc các gia định hoặc cá nhân rơi vào cảnh nghèo đói. “Việc thu hẹp những khoảng cách trong dịch vụ chăm sóc này nên được nhìn nhận là một khoản đầu tư không chỉ nhằm hỗ trợ sức khỏe và sinh kế mà còn hỗ trợ các quyền cơ bản, bình đẳng giới và đảm bảo tính đại diện cao hơn” - bà Manuela Tomei cho biết.