“Cúc ơi” - tiếng thơ lay động trái tim giữa cõi thiêng Đồng Lộc

Văn Lê/laodong.vn
Chia sẻ Zalo

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, chúng tôi có cuộc gặp gỡ, trò chuyện cùng nhà thơ Yến Thanh, tác giả bài thơ “Cúc ơi” viết về sự hy sinh của 10 nữ liệt sĩ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh).

Nhân dịp kỷ niệm Ngày Thương binh liệt sĩ 27/7, chúng tôi có cuộc gặp gỡ, trò chuyện cùng nhà thơ Yến Thanh, tác giả bài thơ “Cúc ơi” viết về sự hy sinh của 10 nữ liệt sĩ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) - một trong những tác phẩm đi cùng năm tháng, đã lay động trái tim nhiều thế hệ độc giả.

Tượng đài chiến thắng tại Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh: Anh Tuấn
Tượng đài chiến thắng tại Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh: Anh Tuấn

Bài thơ gọi hồn đồng đội

Chào nhà thơ Yến Thanh! Rất vui được gặp anh tại quê hương Hà Tĩnh. Nhiều độc giả trong và ngoài tỉnh đã biết bài thơ “Cúc ơi”, nhất là sau khi được các nhạc sĩ phổ nhạc, nhưng tác giả thì chưa hẳn ai cũng biết. Vì vậy, xin nhà thơ có đôi lời giới thiệu về mình với độc giả.

- Tôi tên thật là Nguyễn Thanh Bính, kỹ sư cầu đường biệt phái sang phụ trách kỹ thuật TNXP trong thời kỳ chiến tranh tại Ngã ba Đồng Lộc. Tôi lấy bút danh Yến Thanh để lưu ký lại một mối tình với một cô TNXP ở Ngã ba Đồng Lộc. Cô tên là Ái Liên (nói lái là Yến Lai).

Sau khi đế quốc Mỹ ngừng ném bom Đồng Lộc, tôi đi học khoa Kinh tế Xây dựng - Trường Đại học Giao thông vận tải Hà Nội. Sau Giải phóng 1975, tôi vào TPHCM làm việc trong ngành đường sắt rồi ra Bắc làm ở một Công ty Cầu đường, năm 1997 tôi vào làm việc ở Ban quản lý dự án cầu Mỹ Thuận (TP Hồ Chí Minh), năm 2003 tôi ra Bắc rồi nghỉ hưu. Hiện tôi sống ở TP Vinh nhưng vẫn sinh hoạt ở Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.

Nhiều người nói rằng bài thơ "Cúc ơi" là để gọi hồn đồng đội, có đúng không thưa nhà thơ?

- Tiểu đội TNXP (A4-C552-N55-P18) do Võ Thị Tần - A trưởng; Hồ Thị Cúc - A phó là một tập thể thuộc Đội TNXP - N55 - P18 nơi tôi làm cán bộ kỹ thuật. Đội chúng tôi gồm 1.300 cán bộ đội viên, hàng đêm gặp nhau ở hiện trường. Tiểu đội 4 gồm 17 cô thuộc lính hai nhiệm kỳ khác nhau (năm 1965 và 1967).

Ban đêm ra Đồng Lộc, ban ngày tôi vừa nghiên cứu chuyên môn đề ra phương án tác chiến cho các đơn vị, còn thời gian tôi sáng tác các câu hò, rồi gửi xuống đơn vị để cho chiến sĩ học thuộc, tối đến ra hiện trường hò đối đáp lẫn nhau cho đỡ sợ đạn bom, máy bay. Lúc 10 cô còn sống, chúng tôi gắn bó với nhau, tôi vẽ gối, vẽ khăn cho các cô thêu, khắc bút cho các cô. Khi các cô hy sinh, tôi có mặt ở hiện trường. Chiều 24.7.1968, trong khi cả tiểu đội đang thi công tại Đồng Lộc thì bất ngờ một trong ba chiếc máy bay phản lực F105 cắt bom trúng nơi 10 cô ẩn nấp (7 người không có mặt tại đó). Thi thể 10 cô bị vùi dưới đất.

Sau 2 tiếng đồng hồ, đơn vị đào được thi hài 9 cô, đặt trên 9 cáng xếp thành một hàng ngang như khi còn sống tiểu đội tập hợp. Riêng Hồ Thị Cúc, mãi chưa tìm được thi thể.

Tại nhà Ban chỉ huy C552 (tại xóm Mai Long, xã Xuân Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh) đêm 24.7 có 10 cái hòm chở về thì 9 cái đã có chủ, riêng hòm của Hồ Thị Cúc còn chờ người. Chiều 25.7.1968, tôi đến ban chỉ huy Đại đội 552 thì chiếc hòm của Cúc đã được ai đó chuyển ra để sau vườn nhà, lúc đó cảm xúc thương xót trào dâng trong tôi.

Tôi nghĩ, đời này sao lại có một cô Cúc bất hạnh đến thế. Lên 1 tuổi, cha Cúc và bà nội chết đói năm 1945, lên 3 tuổi (1947), mẹ Cúc đi bước nữa, 8 tuổi Cúc đi ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà chú mự và một lần mự sẩy tay đổ cả nồi cám lợn đang sôi lên lưng Cúc. O Loan chữa bỏng và nuôi Cúc 2 năm trời mới lành nhưng để lại một vết sẹo từ vai xuống mông làm da Cúc nhăn nhúm.

Nghĩ thế và tôi vừa khóc vừa viết bài thơ “Cúc ơi” cạnh hòm của Cúc. Sáng hôm sau (26.7), tôi và anh Nguyễn Hải Đường Bí thư chi bộ C552 ra ngay hố bom thắp hương khấn bằng bài thơ “Cúc ơi”. Quả nhiên trưa hôm đó, đồng đội đã tìm thấy thi thể Cúc trong tư thế ngồi trong chiếc hầm tròn cạnh hầm chữ T mà 9 cô gái khác ẩn nấp. Chiếc nón Cúc đội trên đầu bẹp dí, vai ôm cái cuốc, 10 ngón tay đầy máu khô.

Nhà thơ Yến Thanh bên bia đá khắc bài thơ “Cúc ơi!” tại Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh: Văn Lê
Nhà thơ Yến Thanh bên bia đá khắc bài thơ “Cúc ơi!” tại Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh: Văn Lê

Âm nhạc chắp cánh cho thơ đi xa

Bài thơ “Cúc ơi” là một trong những tác phẩm gây xúc động và có vị trí trong lòng bạn đọc, nhất là sau khi bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Có những nhạc sĩ nào phổ nhạc bài thơ này? Trong số những bản nhạc phổ thơ, thi sĩ thích tác phẩm nào nhất?

- Sau khi bài thơ ra đời, có 5 nhạc sĩ đã phổ nhạc bài thơ này. Cả 5 nhạc sĩ tôi không hề thân quen và tôi cũng không gửi tác phẩm cho họ. Đó là các nhạc sĩ Bùi Hăng Ry, Võ Công Diên, Phạm Thắng, Vũ Phúc Ân, Nguyễn Trung Nguyên. Nhạc sĩ Bùi Hăng Ry đoạt giải Nhì (không có giải Nhất) trong cuộc thi ca khúc viết về Ngã ba Đồng Lộc. Ca sĩ Đông Xuân đã thể hiện rất thành công tác phẩm này.

Mỗi nhạc sĩ khai thác bài thơ ở một góc độ khác nhau và thể hiện giai điệu khác nhau. Có người giữ nguyên tên tác phẩm “Cúc ơi”, nhưng cũng có người đã thay tên “Em ở nơi mô?”. 5 bản nhạc, 5 phong cách, 5 giai điệu khác nhau, nhưng tôi thích nhất là bản nhạc của Bùi Hăng Ry. Còn ca sĩ tôi lại thích Thu Hiền thể hiện bài “Em ở nơi mô” của Võ Công Diên.

Được biết, bài thơ “Cúc ơi” đã được khắc trên đá đặt trong khu mộ 10 nữ anh hùng tại Ngã ba Đồng Lộc. Cùng với bài thơ “Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc” của nhà thơ Vương Trọng, “Cúc ơi” nhận được vinh dự này. Dẫu biết bài thơ đã được dựng tượng đài trong lòng bạn đọc, nhưng được khắc bia đá đặt tại nơi linh thiêng là điều kiện để lan tỏa bài thơ đến độc giả, nhà thơ đã đón nhận thông tin này ra sao?

- Tôi còn nhớ 8 giờ sáng ngày 23/12/2023, lễ khánh thành bia đá khắc bài thơ “Cúc ơi” được tiến hành trong khu mộ 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc trước sự chứng kiến của đại diện Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Hà Tĩnh, lãnh đạo, cán bộ viên chức khu di tích Ngã ba Đồng Lộc, lãnh đạo trường Văn hóa nghệ thuật Hà Tĩnh, Nhà hát nghệ thuật truyền thống Hà Tĩnh, tác giả và bạn bè...

Tôi vô cùng xúc động. Không có từ nào để diễn tả hết tâm trạng của tôi. Thương nhớ đồng đội không để đâu cho hết! Đã từng chia lửa, vào sinh ra tử cùng đồng đội, bài thơ “Cúc ơi” thay cho lời gọi hồn. Tôi không làm thơ mà đó là tiếng khóc, lời gào thét của tôi, từ gan ruột với đồng đội. Nước mắt thương xót thấu đá, thấu tâm can. Ngã ba Đồng Lộc nơi đi về thường xuyên của tôi. Không có sự kiện nào ở đó mà tôi không có mặt.

Nhà thơ Yến Thanh (bên phải) và tác giả trên đồi sim Trọ Voi - Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh: Anh Tuấn
Nhà thơ Yến Thanh (bên phải) và tác giả trên đồi sim Trọ Voi - Ngã ba Đồng Lộc. Ảnh: Anh Tuấn

Viết về Đồng Lộc đến hơi thở cuối cùng

Nhà thơ đã từng có một thời lăn lộn sống chết với Đồng Lộc. Ngoài “Cúc ơi”, anh còn có những sáng tác nào nữa?

- Thời gian phụ trách kỹ thuật Đội TNXP N55-P18, tôi là cây sáng tác "đa hệ" để có tiết mục cho đội văn nghệ của đơn vị. Tôi viết cả thơ, hoạt cảnh, kịch nói, vũ đạo múa, hò, vè, tấu hài... góp phần cho phong trào tiếng hát át tiếng bom của đơn vị ở Đồng Lộc lên cao trào thuở đó.

Tiếc rằng cái vũ khí "phi vật thể" ấy hiện chưa có văn nghệ sĩ nào để ý tới. Làm thơ về TNXP và Ngã ba Đồng Lộc từ năm 1965 đến nay, tôi đã viết khoảng 300 bài, trong đó có 3 bài thành công, đó là: “Cúc ơi”, “Nén hương đồng đội” (Tuyển thơ thế kỷ 20 của Hà Tĩnh) và bài “Ngã ba tên em” (Đài tiếng nói Việt Nam phát vào năm 1968).

Ngoài đề tài TNXP và Đồng Lộc, tôi còn là một tác giả chuyên viết về Nghi Xuân, Uy Viễn và Tiên Điền. Tôi đã thành công bài "Lục bát Tiên Điền" (1993) - tuyển thơ trữ tình Việt Nam thế kỷ 20 do Nhà xuất bản Giáo dục tuyển chọn năm 2002 - và bài "Cái dằm" - tuyển tập thơ tình do Báo Văn nghệ - Hội nhà Văn xuất bản năm 2009.

Những dự định sáng tác của nhà thơ trong thời gian sắp tới?

- Cách đây 10 năm, tôi đã cùng các nhà báo hoàn thành cuốn sách tư liệu lịch sử "Khúc anh hùng ca Ngã ba Đồng Lộc", dày 256 trang do Nhà xuất bản QĐND ấn hành năm 2013. Nay tôi vẫn tiếp tục viết, viết cho đến khi tim không còn đập nữa và những sáng tác về Đồng Lộc sẽ tiếp tục ra đời nếu ngày nào tôi còn sống.

Xin cảm ơn nhà thơ về cuộc trò chuyện này, chúc anh sức khỏe, có nhiều những tác phẩm được bạn đọc yêu mến như “Cúc ơi”!

CÚC ƠI!

Tiểu đội đã xếp một hàng ngang
Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ - Xuân - Hà - Hường - Hợi - Rạng - Xuân - Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em
(Chín bỏ làm mười răng được!)
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng!
Cúc ơi! em ở đâu?
Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp Năm em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em
Gào em
Khan cổ cả rồi
Cúc ơi!