Bộ LĐTB&XH đã xây dựng dự thảo Tờ trình về việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết cho phép không giới hạn số giờ làm thêm trong 1 tháng và được tổ chức làm thêm đến 300 giờ trong 1 năm.
Theo đó, nhằm đạt được mục tiêu kép vừa phòng chống dịch Covid-19 vừa bảo đảm hoạt động sản xuất của DN, duy trì được việc làm, ổn định đời sống và thu nhập của người lao động, cũng như cố gắng duy trì chuỗi cung ứng toàn cầu, Bộ LĐTB&XH xây dựng dự thảo Nghị quyết theo hướng: Không áp dụng giới hạn làm thêm tối đa đến 40 giờ/tháng; được áp dụng làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ/năm cho tất cả các ngành nghề, công việc.
Tuy nhiên, nhằm đảm bảo sức khỏe cho người lao động, vẫn giữ nguyên quy định giới hạn làm thêm giờ theo ngày và nghỉ chuyển ca,... tại Bộ luật Lao động. Cụ thể, tại Điều 107 Bộ luật Lao động quy định, số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày; tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 40 giờ trong 1 tháng; không quá 200 giờ trong 1 năm. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 1 năm trong một số ngành nghề, công việc, trường hợp theo quy định.
Bộ LĐTB&XH đề xuất điều chỉnh tăng thời gian làm thêm giờ vượt quy định 40 giờ/tháng và không quá 300 giờ/năm. Ảnh: Khắc Kiên. |
Bộ LĐTB&XH cho rằng, với quy định điều chỉnh tăng giờ làm thêm theo tháng vượt khung quy định, người sử dụng lao động sẽ tận dụng tối đa nguồn lực khi bắt đầu kiểm soát được dịch bệnh và tiến hành phục hồi sản xuất.
Đối tượng được thực hiện tăng giới hạn làm thêm giờ trong tháng là người sử dụng lao động được quy định tại Khoản 2, Điều 2, Bộ luật Lao động, bao gồm: DN, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa thuận.
Thời gian thực hiện tăng thời gian làm thêm giờ, được thực hiện từ khi Nghị quyết có hiệu lực đến hết ngày 31/12/2024. Theo Bộ LĐTB&XH, mặc dù đến nay chúng ta đã từng bước kiểm soát được dịch bệnh, tuy nhiên, để bước đến giai đoạn bình thường mới, bên cạnh việc tiếp tục duy trì các biện pháp phòng chống dịch bệnh thì tỉ lệ người dân được tiêm vaccine để đạt miễn dịch cộng đồng ước tính phải đến cuối năm 2022. Sau giai đoạn này, DN sẽ từng bước ổn định và nâng dần công suất hoạt động. Ước tính, đến hết năm 2024, nếu tình hình kiểm soát dịch bệnh tốt, kể cả đối với những biến thể mới của virus SARS-CoV-2 thì hoạt động của các DN sẽ ổn định bình thường trở lại.
“Điều này cũng nhằm vừa tạo điều kiện phục hồi cho DN, hợp tác xã, hộ kinh doanh, cũng không quá dài gây quá tải cho người lao động có thể phải làm thêm liên tục trong khoảng thời gian dài. Và, đồng thời cũng dễ dàng cho việc tổ chức lao động của DN” –Bộ LĐTB&XH lý giải.
Theo báo cáo nhanh của các tỉnh phía Nam, tính đến ngày 13/8/2021, đã có khoảng 2,5 triệu lao đọng phải ngừng việc, chiếm 70% số lao động phải ngừng việc trong cả nước. Tại các khu công nghiệp, khu chế xuất – nơi tập trung nhiều DN, nhà máy thuộc chuỗi cung ứng toàn cầu với lực lượng lao động lớn thì có khoảng gần 50% số DN phải dừng hoạt động hoặc do để phòng chống dịch bệnh hoặc không bảo đảm về nguyên liệu sản xuất do ách tác giao thông hoặc không bảo đảm số lao động làm việc do phải thực hiện “3 tại chỗ”, “1 cung đường – 2 điểm đến”.
Nhiều DN do phải thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh, lực lượng lao động đã giảm xuống dưới 50%; ở không ít các DN, nhất là DN sản xuất trong chuỗi cung ứng như dệt may, da, giày, chế biến thủy, hải sản..., lực lượng lao động có khi giảm xuống dưới 30%, trong khi vẫn phải đảm bảo tiến độ sản xuất và các hợp đồng đã ký kết.