KTĐT - Biểu hiện ợ chua, nóng rát thực quản là những báo động không bình thường của ống tiêu hóa, nếu không được phát hiện và điều trị sớm có thể gây ra những hậu quả trầm trọng như ung thư thực quản, dạ dày.
Bên cạnh các biện pháp điều trị, người bệnh cũng cần tuân thủ một chế độ ăn uống hợp lý.
Dịch vị trào ngược, do đâu?
Bình thường ống tiêu hóa từ thực quản đến dạ dày, rồi ruột non và đại tràng đều có những nhu động xuôi chiều để đẩy thức ăn xuống đoạn dưới; các nhu động này chịu tác động của 3 hệ thần kinh: thần kinh trung ương, thần kinh thực vật (giao cảm và phó giao cảm) và hệ thần kinh nội tại. Ở một vài đoạn có những cơ tròn đóng mở nhịp nhàng với các nhu động đó để thức ăn đi qua. Đối với thực quản dạ dày, bình thường vẫn có ít dịch vị được đẩy lên thực quản (sau ăn, khi nằm...) nhưng số lượng rất ít không đáng kể và chỉ thoáng qua vì nhu động thực quản đáp ứng ngay để tống trở lại dạ dày. Chất toan của số ít dịch vị này cũng không gây bệnh tích ở niêm mạc thực quản vì quá ít, thoáng qua và cũng bị bất hoạt bởi các yếu tố bảo vệ thực quản.
Dịch vị trào ngược khi nhu động thực quản quá yếu (do cơ chế thần kinh hoặc do bệnh lý nội tác của thực quản) không đủ sức tống trở lại số dịch vị trào ngược đó. Tăng áp lực trong dạ dày và ứ đọng thức ăn, thường xảy ra khi nhu động dạ dày cũng quá yếu hoặc khi môn vị bị hẹp, xơ cứng, không mở đầy đủ để thức ăn xuống ruột non trong các trường hợp loét xơ chai tiền môn vị, hành tá tràng, hoặc ung thư hang vị, tiền môn vị. Tăng áp lực trong ổ bụng (ở người có thai, người bị cổ trướng căng to, người béo). Cơ tròn thực quản dưới kém trương lực không đóng khít hoặc có sự bất thường trong cấu trúc các tổ chức xung quanh tâm vị, đặc biệt khi có khuyết tật của lỗ cơ hoành (nơi thực quản chui qua từ lồng ngực xuống ổ bụng để nối tiếp với dạ dày) gọi là "thoát vị cơ hoành".
Hậu quả khi dịch vị trào ngược
Bình thường, niêm mạc thực quản được bảo vệ chống lại chất toan dịch vị nhờ: nhu động thực quản tống dịch vị trở lại dạ dày; trung hoà chất toan dịch vị bởi nước bọt nuốt xuống có tính chất kiềm mạnh; lớp nhầy niêm mạc và hàng rào biểu mô có tế bào nhầy tiết bicarbonat có khả năng loại trừ số acid đã vượt qua.
Khi dịch vị trào lên quá nhiều vượt các khả năng chống đỡ nói trên sẽ gây bệnh tích ở niêm mạc thực quản, thông thường nhất ở 1/3 dưới, có khi lên cả đoạn trên, từ viêm đỏ phù nề đến loét trợt niêm mạc, hẹp lòng thực quản và biến đổi cấu trúc niêm mạc có dị sản ruột và loạn sản (thực quản Charrett) tiền thân của ung thư thực quản. Ở mức độ nhẹ, có 2 biểu hiện chính là nóng rát sau xương ác và ợ chua. Bệnh nhân có thể có cảm giác nghẹn sau xương ác nhưng uống nước và nuốt thức ăn vẫn thông suốt dễ dàng, không vướng mắc. Nếu để bệnh tiến triển không điều trị, các biểu hiện nói trên sẽ gia tăng, không những chỉ nóng rát sau xương ác mà cả nóng rát họng hầu (thường được chuyên khoa tai mũi họng phát hiện) làm cho bệnh nhân ho, khó thở và có thể viêm phù phế quản do dịch vị hít vào. Ở mức độ nặng hơn, khi có viêm nhiễm, nhất là khi loét trợt, bệnh nhân có thể nuốt đau và cả khó nuốt khi lòng thực quản bị hẹp, khi niêm mạc thực quản mang cấu trúc barrett
Nội soi ống tiêu hoá trên đóng một vai trò quan trọng xác định chứng bệnh này. Nội soi sinh thiết một số mảnh ở các vùng bệnh lý đó có thể phát hiện các biến đổi cấu trúc của thực quản, để có biện pháp theo dõi, phòng ngừa sự tiến triển đến ung thư. Không những thế nội soi còn có thể phát hiện các nguyên nhân thực thể tạo điều kiện cho trào ngược dịch vị như thoát vị cơ hoành để có biện pháp can thiệp ngoại khoa thích hợp.
Các biện pháp khắc phục bệnh
Những biểu hiện trên của bệnh cho ta thấy, đối với một người mắc chứng trào ngược dịch vị, nhất là khi đã có biểu hiện bệnh tích thực quản dù mới chỉ là viêm, cũng cần chú ý những yêu cầu sau:
Tăng cường yếu tố bảo vệ niêm mạc thực quản: Chủ yếu tăng cường nhu động để tống dịch vị xuống lại dạ dày, có thể dùng các thuốc kích thích nhu động như: motilium, cisapride, metoclopramido... Cần lưu ý rằng cisapride gần đây phát hiện có nhiều tác dụng phụ về tim mạch nên cần thận trọng khi sử dụng. Có tác giả khuyến cáo không nên dùng. Có thể dùng sucrafat vì khi tiếp xúc với dịch vị toan, sucrfat sẽ tạo thành một màng bao phủ lên niêm mạc, vết trợt hoặc vết loét để bảo vệ chất chống toan dịch vị.
Hạn chế yếu tố tấn công niêm mạc thực quản, bằng các thuốc ức chế tiết toan như famotidin, omeprazol, pantoprazol.
Hạn chế các yếu tố thuận lợi cho việc trào ngược dịch vị lên thực quản chủ yếu bằng chế độ sinh hoạt, như không ăn các chất béo và các chất khó tiêu, nhất là vào bữa tối; không ăn gì thêm sau 20 giờ; không nằm ngay sau khi ăn và ngủ nếu gối cao đầu, kê cao đầu giường hơn một chút để nằm hơi dốc; tránh béo phì; trong trường hợp có rối loạn cấu trúc tâm vị, có thoát vị cơ hoành hoặc hẹp môn vị cần được đi thăm khám để bác sĩ quyết định can thiệp bằng nội soi hay phẫu thuật