Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Điều trị chứng huyết hư

TS. Võ Trọng Tuân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Theo Đông y, huyết hư là một chứng hậu, nguyên nhân bao gồm tất cả các yếu tố dẫn đến sự thiếu hụt huyết lưu hành trong tạng phủ, kinh mạch, biểu hiện là sự thiếu nuôi dưỡng.

Huyết là “tinh” của đồ ăn, thức uống, được nạp vào Vị, được Tỳ hóa ra, rồi vận lên Tâm, Tâm dùng chân âm Hỏa mà hóa sắc đỏ cho “tinh” tạo ra huyết. Huyết lại nương vào Phế để lưu thông khắp cơ thể, rồi lại về tàng trữ ở Can. Thận thuộc Thủy, chủ về tất cả Thủy - mà huyết là một loại thủy, nên Thận tinh cũng sinh huyết. Đây là con đường tạo ra và vận hành của huyết trong cơ thể.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến Huyết hư, trong đó, Hư lao là một trong những nguyên nhân chính. Hư lao là tên gọi chung của “ngũ lao, thất thương, lục cực”. “Ngũ lao” chỉ sự hoạt động quá sức của cơ thể làm tổn thương ngũ tạng, gồm tâm lao, can lao, tỳ lao, phế lao, thận lao. Nội Kinh viết: nhìn lâu hại huyết (Tâm) vì huyết dựa vào mạch chứa đựng, các mạch lại quy về mắt, nằm lâu hại khí (Phế) do khí thuộc Dương, Dương chủ động, tĩnh làm khí trở trệ, ngồi lâu hại cơ nhục (Tỳ) vì Tùy chủ cơ nhục, chủ vận động, đứng lâu hại cốt (Thận) vì Thận chủ cốt tuỷ, cốt vững thì đứng được, đi lâu hại cân (Can) vì Can chủ cân, cân mạnh thì đi được, đó là thương tổn về ngũ lao.
Đông y có những bài thuốc vị thuốc điều trị chứng huyết hư. Điển hình trong số đó là bài thuốc Tứ vật thang.
Bài thuốc Tứ vật thang được ghi trong tác phẩm Thái bình huệ dân- Hoà tễ cục phương, được Danh y Chu Đan Khê trọng dụng. Bài thuốc gồm: thục địa, đương quy, bạch thược, xuyên khung. Đây là bài thuốc chủ đạo trong điều trị huyết hư, bổ huyết mà không trệ, hành huyết mà không phá, trong bổ có tán, trong tán có thu, giúp điều hòa kinh nguyệt, nên còn được xem là phương thuốc quý của Phụ nữ.
Thục địa là quân dược trong bài thuốc, là vị thuốc được chế từ tiên địa hoàng (rễ tươi của cây địa hoàng), qua cửu chưng cửu sái (chín lần chưng, chín lần phơi) mà thành. Tiên địa hoàng có vị ngọt, đắng, tính hàn- tác dụng thanh nhiệt là chính, còn thục địa có vị ngọt, tính ấm, quy ba kinh âm, bổ huyết là chính. Qua chưng - phơi, thục địa có tác dụng tư bổ Can âm, ích Thận tinh, dưỡng Tâm huyết, là vị thuốc hàng đầu bổ Hạ nguyênĐương quy có vị
ngọt, cay, tính ôn, quy vào ba kinh âm. Toàn đương quy tác dụng bổ dưỡng toàn cơ thể. Quy thân có sức bổ huyết mạnh nhất, dùng cho huyết hư nhiều mà không có huyết ứ. Quy vĩ (đuôi của Đương quy) có tác dụng tiêu ứ mạnh, dùng khi huyết hư kèm huyết ứ. Đương quy tu (nhánh bên của củ Đương quy), bổ âm huyết kém hơn, chủ yếu thông kinh lạc
Bạch thược có vị đắng, chua, hơi hàn, quy kinh Can, Tỳ, có tác dụng dưỡng huyết, liễm âm, hoà Can chỉ thống. Bạch thược nếu được chế với rượu và sao vàng với cám thì sẽ khử được tính hàn, tăng tác dụng bổ Can, Tỳ.
Xuyên khung có vị cay, tính ôn, quy kinh Can, Đởm. Xuyên khung có vị cay nên có khả năng tán kết, là thuốc “trị huyết trong khí”. Sách Bản thảo hội ngôn có ghi: “vị xuyên khung, thượng hành đầu mục, hạ điều kinh thủy, trung khai uất kết, huyết trung khí dược”, nên dùng cho bệnh khí huyết đều tốt.
Huyết là một phần vật chất quan trọng của cơ thể, để tránh làm huyết hư, đạt được đời sống khoẻ mạnh và lâu dài, chúng ta hãy lựa chọn một lối sống tĩnh tại, bớt căng thẳng, bớt áp lực, hoà mình vào thiên nhiên…