Đường đi của 11 tỷ đồng “bôi trơn”

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Như Kinh tế & Đô thị đã thông tin, ngày 26/10, TAND TP Hà Nội đã đưa ra xét xử sơ...

Kinhtedothi - Như Kinh tế & Đô thị đã thông tin, ngày 26/10, TAND TP Hà Nội đã đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án nguyên 6 cán bộ ngành đường sắt lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, nhận “bôi trơn” 11 tỷ đồng xảy ra tại Ban Quản lý (BQL) các dự án đường sắt (RPMU) thuộc Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam (VNR).

Theo đó, các đối tượng đã nhận mức án thích đáng cho hành vi phạm tội. Tuy nhiên, thủ đoạn phạm tội trong vụ này như thế nào; các đối tượng sử dụng số tiền ăn chia ra sao là câu chuyên không phải ai cũng biết.

Lật tẩy hành vi phạm tội

6 bị cáo bị đưa ra xét xử về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” gồm: Phạm Hải Bằng (SN 1969) - nguyên Phó Giám đốc RPMU, Nguyễn Nam Thái (SN 1977) - nguyên Trưởng phòng Dự án 3 RPMU, Trần Văn Lục (SN 1958) - nguyên Giám đốc RPMU; Trần Quốc Đông (SN 1964) - nguyên Phó Tổng Giám đốc VNR và nguyên Giám đốc RPMU, Nguyễn Văn Hiếu (SN 1962) - nguyên Giám đốc RPMU và Phạm Quang Duy (SN 1975) - nguyên Phó Giám đốc RPMU.
Các bị cáo tại phiên xét xử ngày 26/10.
Các bị cáo tại phiên xét xử ngày 26/10.
Trong quá trình tiếp cận hồ sơ vụ việc, phóng viên đã ghi nhận những thông tin mấu chốt khiến các đối tượng sa lưới pháp luật. Theo đó, ngày 31/10/2008, Bộ GTVT ban hành quyết định về việc phê duyệt Dự án xây dựng đường sắt đô thị tuyến số 01 (giai đoạn 1). Ngày 26/11/2008, VNR ra quyết định về việc giao nhiệm vụ đại diện chủ đầu tư quản lý dự án tuyến số 01 cho RPMU. Ngày 5/1/2009, RPMU có quyết định thành lập Tổ dự án tuyến số 01 gồm 21 thành viên, trong đó Phó Giám đốc RPMU Phạm Hải Bằng làm chủ nhiệm dự án, Trưởng phòng Dự án 3 Phạm Quang Duy làm điều phối viên, Phó Trưởng phòng Dự án Nguyễn Nam Thái là chuyên viên kỹ thuật dự án.

Ngày 9/1/2009, RPMU ra Quyết định số 34/QĐ-RPMU-ADM thành lập Tổ chuyên gia đấu thầu gói thầu Dịch vụ tư vấn kỹ thuật của Dự án tuyến số 01 gồm 13 thành viên, trong đó Phạm Hải Bằng là tổ trưởng, Phạm Quang Duy - tổ viên thường trực, Nguyễn Nam Thái - tổ viên. Ngày 9/9/2009, VNR đã ký Hợp đồng dịch vụ tư vấn kỹ thuật Dự án tuyến số 01 với liên danh (gọi tắt là JKT) do Công ty Tư vấn giao thông Nhật Bản (JTC) đứng đầu, gồm: JTC, Công ty Dịch vụ kỹ thuật đường sắt Nhật Bản (JARTS), Công ty Tư vấn Đường sắt miền Đông Nhật Bản (JRC)… với tổng trị giá 2.900.786.900 Yên Nhật và 320.588.823.878 VND (tương đương 4.691.885.976 Yên), bằng nguồn vốn vay ODA và vốn đối ứng của Việt Nam theo Hiệp định vay JICA lần 1 với giá trị 4.683 tỷ Yên ký ngày 31/3/2008 cho công tác thiết kế kỹ thuật và hỗ trợ đấu thầu giai đoạn 1.

Theo Báo cáo số 3428/BGTVT-KHĐT ngày 31/3/2014 của Bộ GTVT, việc thực hiện gói thầu đã cơ bản hoàn thành nhưng do cầu vượt sông Hồng và đoạn tuyến phía Bắc sông Hồng chưa được TP Hà Nội và các bộ, ngành thống nhất hướng tuyến nên VNR chưa thể phê duyệt được toàn bộ thiết kế kỹ thuật. Sau khi hợp đồng được ký kết và Tư vấn JKT bắt đầu triển khai công việc từ 1/10/2009 thì VNR có 2 quyết định về việc thành lập Ban chỉ đạo thực hiện dự án và các tổ thẩm định chuyên ngành kỹ thuật cho Dự án “Xây dựng đường sắt đô thị Hà Nội tuyến số 01, giai đoạn 1”.

Do tăng khối lượng công việc thiết kế cơ bản và thiết kế kỹ thuật, JKT đã nghiên cứu đề xuất thay đổi một số thông số và nội dung của dự án để phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Căn cứ sự phê duyệt của JICA, Bộ GTVT và ủy quyền của VNR, RPMU và JKT tiến hành thương thảo ký Hợp đồng điều chỉnh ngày 15/3/2013. Hợp đồng điều chỉnh cũng đã được JICA và Bộ Tài chính thẩm định. Hợp đồng điều chỉnh giá trị hợp đồng tư vấn tăng so với hợp đồng gốc 7,68% (tương ứng 84.497.283.402 VND), tổng trị giá hợp đồng sau điều chỉnh là 236.091.540.476 VND.

Quá trình thực hiện hợp đồng tư vấn, từ tháng 10/2009 - 11/2013, RPMU đã thanh toán khối lượng hoàn thành theo 19 hóa đơn của nhà thầu, với tổng giá trị thanh toán bằng vốn vay ODA là 2.898.794.074 JPY (đạt 80,43% phần ngoại tệ) và 163.691.997.871 VND (đạt 69% phần nội tệ); bằng vốn đối ứng là 85.625.448.842 VND (thanh toán thuế GTGT trong nước). Việc thanh toán này được Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước T.Ư và chủ đầu tư chấp thuận thanh toán cho nhà thầu theo đúng quy định; được Ngân hàng Tokyo Mitsubishi Ltd, Tokyo là ngân hàng chi trả được chỉ định phát hành thư tín dụng không hủy ngang để thanh toán cho JTC. Giá trị còn lại chưa thanh toán của hợp đồng là 72.399.542.605 VND.

Về tổ chức và hoạt động của RPMU là đơn vị có tư cách pháp nhân đầy đủ, thực hiện chế độ kế toán của đơn vị chủ đầu tư, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và hệ thống ngân hàng, tổ chức bộ máy biên chế, tài chính của một đơn vị sự nghiệp, có quyền tự chủ, chịu trách nhiệm độc lập, được VNR giao cho làm đại diện chủ đầu tư quản lý Dự án xây dựng đường sắt đô thị tuyến số 01; giao nhiệm vụ và ủy quyền cho RPMU thực hiện toàn bộ quyền và trách nhiệm của chủ đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng đối với dự án này; Giám đốc RPMU chịu trách nhiệm cá nhân trước Tổng Giám đốc VNR và trước pháp luật về các nội dung được giao nhiệm vụ và ủy quyền.

Chia tiền như thế nào?

Trong quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng, bị cáo Phạm Hải Bằng nêu khó khăn của RPMU về chi phí triển khai thực hiện dự án và đã được đại diện JTC đồng ý hỗ trợ. Thực tế, JTC đã hỗ trợ khoảng 11 tỷ đồng. Số tiền này được các bị cáo sử dụng vào các hoạt động như: Tổ chức lễ ký kết hợp đồng, hội họp, tiếp khách, đối ngoại, nghỉ mát, thưởng ngày lễ Tết... Việc nhà thầu JTC chi tiền ngoài hợp đồng cho RPMU đã bị các cơ quan tố tụng Nhật Bản khởi tố, xử lý về hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh không công bằng và kiến nghị Việt Nam xác minh làm rõ hành vi của các cán bộ tại RPMU.

Trên cơ sở kết quả điều tra cũng xác định, từ tháng 7/2006, Phạm Hải Bằng được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc RPMU. Đối với Dự án tuyến số 01, Bằng được giao là Chủ nhiệm dự án. Từ tháng 9/2009 - 2/2014, Bằng đã trực tiếp hoặc chỉ đạo bị cáo Duy và Thái nhiều lần nhận tiền của JTC (theo tài liệu điều tra của Nhật Bản là 15 lần) và bằng tiền Yên. Số tiền nhận được, Duy hoặc Thái đem ra phố Hà Trung (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) đổi được 11 tỷ đồng. Việc giao nhận tiền diễn ra tại trụ sở RPMU hoặc Văn phòng JKT tại Hà Nội.

Trong tổng số 11 tỷ đồng đã nhận của JTC, Bằng quản lý và sử dụng 4,8 tỷ đồng; Thái quản lý và sử dụng 3,4 tỷ đồng; còn 2,8 tỷ đồng, Bằng đưa cho Duy nhận rồi chuyển cho Thái và cán bộ Phòng dự án 3 quản lý, sử dụng. Các khoản tiền này được sử dụng vào các hoạt động liên quan đến dự án như chi phí tổ chức lễ ký kết hợp đồng, hội họp, tiếp khách, đối ngoại, in ấn tài liệu, làm ngoài giờ, nghỉ mát, hỗ trợ công đoàn, đoàn thanh niên... để vụ lợi cho tập thể và trong đó có cả quyền lợi cá nhân.

Việc tiếp nhận và sử dụng 11 tỷ đồng của JTC, các bị cáo không mở sổ sách theo dõi tại RPMU hay Tổ dự án và không báo cáo ai tại VNR. Tuy nhiên, qua các thời kỳ giám đốc RPMU, Bằng có báo cáo với Trần Văn Lục (Giám đốc từ năm 1999 - 9/2009), Trần Quốc Đông (Giám đốc từ tháng 10/2009 - 5/2011) và Nguyễn Văn Hiếu (Giám đốc từ tháng 6/2011 đến khi khởi tố vụ án).

Tuy nhiên, các bị cáo Lục, Đông và Hiếu không có chỉ đạo gì để chấm dứt việc tiếp nhận, sử dụng trái phép các khoản tiền từ JTC mà để mặc cho Bằng, Thái nhận tiền và sử dụng chi phí trong thời gian dài. Đồng thời, 3 bị cáo Lục, Đông và Hiếu cũng được hưởng lợi cá nhân từ lợi ích chung do việc sử dụng khoản tiền này. Cụ thể, vào dịp Tết năm 2010, Bằng đã đưa cho Lục 100 triệu đồng từ nguồn tiền của JTC; đưa cho Đông 30 triệu đồng vào các dịp lễ, Tết năm 2010 - 2011 và đưa cho Hiếu 50 triệu đồng vào dịp Tết Nguyên đán năm 2014.

Quá trình điều tra vụ án, Bằng khẳng định, số tiền 4,8 tỷ đồng do mình quản lý đã chi hết vào việc tiếp khách, đối ngoại, nhưng do không ghi chép lại nên không nhớ đã chi như thế nào. Bị cáo Thái khai nhận, đã nhận từ JTC 3,4 tỷ đồng nhưng đã chi sử dụng hết và bị cáo đã nộp lại số tiền 600 triệu đồng vào khoản tạm giữ của Cục Cảnh sát kinh tế - Bộ Công an để khắc phục hậu quả.

Bị cáo Lục khai, vào thời điểm Tết Nguyên đán năm 2010, Lục được Bằng đưa cho 100 triệu đồng từ nguồn tiền nhận của JTC. Ngày 13/5/2014, gia đình Lục đã nộp lại số tiền này để khắc phục hậu quả. Tương tự, bị cáo Đông khai, vào các dịp Tết Nguyên đán năm 2010 - 2011, Đông được Bằng đưa tiền 2 lần với tổng số tiền 30 triệu đồng là tiền mà Bằng đã nhận của JTC; ngày 26/5/2014, gia đình Đông đã nộp lại 30 triệu đồng này.

Bị cáo Duy khai nhận, tổng số tiền nhận từ Bằng là 2,2 tỷ đồng; số tiền này được Duy chuyển cho Thái và cán bộ Phòng dự án 3 để chi cho hoạt động dự án. Về hưởng lợi cá nhân từ số tiền có nguồn gốc từ JTC, vào các dịp lễ, Tết, nghỉ mát các năm 2009 và 2011, Duy nhận được 34,6 triệu đồng. Ngày 3/5/2014, Duy đã tự nguyện nộp lại số tiền 65 triệu đồng để khắc phục hậu quả.