Nhưng đến nay, các tuyến ĐTNĐ vận chuyển hành khách, liên kết logistics, du lịch… vẫn gần như bị bỏ ngỏ, chủ yếu chỉ sử dụng để vận chuyển vật liệu xây dựng.
Vẫn ở mức có tiềm năng
Vận tải trên ĐTNĐ qua những tính toàn thực tế, khoa học đã cho thấy có rất nhiều ưu điểm vượt trội so đường bộ và đường sắt. Bởi chi phí vận chuyển chỉ bằng khoàng 1/4 so với vận tải đường bộ và khoảng 1/2 so với đường sắt.
Hà Nội có 7 sông lớn chảy qua với tổng chiều dài 556km. Trong đó có những hệ thống sông lớn, kết nối rộng khắp như: Sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Cầu… riêng sông Hồng đoạn qua địa bàn Thủ đô dài 163km. Các sông này đã được quy hoạch, kết nối góp phần hình thành nên mạng lưới ĐTNĐ quốc gia, đủ khả năng vươn khắp các vùng miền trong cả nước. Do đó, Hà Nội có điều kiện rất thuận lợi để kết nối với các tỉnh, TP khu vực phía Bắc bằng ĐTNĐ, cũng như kết nối với các cửa ngõ đường thủy quốc tế bằng đường biển qua Hải Phòng, Quảng Ninh.
Sở dĩ vận tải ĐTNĐ có thể đạt mức chi phí thấp do khối lượng vận chuyển lớn, cùng lúc vận chuyển được đa dạng hàng hóa; ít ảnh hưởng đến môi trường; luồng tuyến thông thoáng, ít khi xảy ra ùn tắc, giảm thiểu được chi phí phát sinh. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rõ, ĐTNĐ còn có một số nhược điểm cố hữu như phụ thuộc vào yếu tố thời tiết; tốc độ, thời gian vận chuyển không nhanh bằng các loại hình khác; mức độ linh hoạt, tiếp cận chưa thuận tiện bằng vận tải đường bộ.
Đồ án Quy hoạch kết cấu hạ tầng ĐTNĐ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại Quyết định số 1829/QĐ - TTg ngày 31/10/2021) đã xác định 4 hành lang vận tải ĐTNĐ chính của khu vực phía Bắc. Trong đó có 3 hành lang đi qua Hà Nội gồm: Quảng Ninh - Hải Phòng - Hà Nội; Hà Nội - Nam Định - Ninh Bình; Hà Nội - Việt Trì - Lào Cai.
Khu vực đồng bằng sông Hồng được quy hoạch phát triển 15 cụm cảng hàng hóa chính. Riêng Hà Nội có 5 cụm bao gồm 1 cụm cảng trung tâm và 4 cụm cảng phân bổ theo các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc; đáp ứng cỡ tàu khai thác từ 1.000 - 3.000 tấn. Ngoài ra, khu vực phía Bắc còn được quy hoạch 9 cụm cảng hành khách chính; Hà Nội có 1 cụm trên các tuyến sông: Hồng, Đuống, Công, Đáy, công suất đến năm 2030 đạt 1.100.000 lượt hành khách/năm.
Theo quy hoạch nêu trên, Hà Nội có vai trò vô cùng quan trọng trong tổng thể mạng lưới giao thông ĐTNĐ quốc gia nói chung cũng như khu vực phía Bắc và đồng bằng sông Hồng nói riêng. Bên cạnh đó, dọc theo tuyến sông của TP còn tập trung khá nhiều các di tích, lịch sử văn hóa, hệ thống làng nghề cổ. Đây chính là điều kiện cơ bản để TP khai thác du lịch, thương mại dọc theo các tuyến sông.
Nhưng hiện nay, việc đầu tư phát triển vận tải ĐTNĐ của Thủ đô nói riêng và khu vực đồng bằng sông Hồng nói chung vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Hệ thống cảng ĐTNĐ nhiều thập niên đã qua vẫn không tăng thêm hay nâng cấp; phương tiện ĐTNĐ lạc hậu; công tác đầu tư cải tạo luồng, tuyến chậm chạp, manh mún.
Điều này dẫn đến sản lượng vận chuyển hàng hóa ĐTNĐ chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu vận tải, chủ yếu là chuyên chở vật liệu xây dựng; vận chuyển hành khách và du lịch dọc các tuyến sông còn bỏ ngỏ. Trong khi đường bộ ngày càng gian nan do quá tải, vai trò của đường sắt khá mờ nhạt thì ĐTNĐ vẫn chưa được khai thác hiệu quả, giống như một “món ăn ngon đành để nguội” vì thiếu đồ dùng.
Cần sự quan tâm thiết thực
Một trong những nguyên nhân chính khiến ĐTNĐ của Hà Nội bị bỏ lại phía sau trong suốt thời gian qua do thiếu sự quan tâm đúng mức, thiếu bàn tay kiến thiết mạnh mẽ. Chính vì vậy, hạ tầng kết nối giữa ĐTNĐ với mạng lưới đường bộ chưa đồng bộ, thiếu tính gắn kết; vai trò của ĐTNĐ trong hệ thống logistics gần bằng không, dù nó chính là một yếu tố quan trọng để lĩnh vực dịch vụ này có thể giảm chi phí, tăng chất lượng.
Hạ tầng ĐTNĐ còn gần như bị quên lãng khi đầu tư một số hạng mục đường bộ. Một số tuyến sông đang gặp hạn chế về tĩnh không thông thuyền do có đoạn vướng cầu. Nhiều cảng lay lắt vì đường bộ kết nối hư hỏng, chật hẹp, không đáp ứng nổi nhu cầu giao thông, vận chuyển. Mặt khác, cơ chế chính sách sách trong khuyến khích đầu tư hạ tầng ĐTNĐ chưa theo kịp với thực tế, không thu hút được nhà đầu tư, khiến tình trạng lạc hậu ngày càng trì trệ, kéo dài.
Vai trò của ĐTNĐ đã được Chính phủ đánh giá đúng mức thông qua Quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy nội địa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. ĐTNĐ không chỉ là một hệ thống song song hữu hiệu nhằm giảm áp lực cho mạng lưới giao thông đường bộ hiện đang quá tải, mà còn là kênh vận chuyển giúp giảm chi phí, tăng cường khả năng cạnh tranh, là lĩnh vực có thể thu hút đầu tư rất lớn. Với Hà Nội, nó còn trợ lực thúc đẩy khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch, tăng cường giá trị cho quỹ đất dọc hai bên các tuyến sông.
Hà Nội cần chú trọng hơn nữa, có loạt giải pháp nhanh, mạnh để từng bước phát triển ĐTNĐ. Trước hết, khẩn trương hoàn thiện, cụ thể hóa quy hoạch hạ tầng ĐTNĐ trên địa bàn TP. Đồng thời rà soát, điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Thủ đô, các quy hoạch có liên quan đang được triển khai, đảm bảo đồng bộ với quy hoạch ĐTNĐ.
Việc quy hoạch chi tiết hạ tầng ĐTNĐ phải đồng bộ, gắn bó chặt chẽ với quy hoạch đường bộ, đường sắt và các loại hình vận tải khác. Đó là cơ sở đầu tiên để hình thành các đầu mối trung chuyển hàng hóa, logistics, kết nối đa dạng nhiều loại hình vận tải; mặt khác gắn kết hệ thống cảng thủy nội địa với hệ thống cảng biển quốc tế.
Muốn phát triển ĐTNĐ cần có nguồn vốn đầu tư. Muốn thu hút được đầu tư phải có sản phẩm tốt để chào hàng. Hà Nội cần xây dựng các mô hình cảng ĐTNĐ mẫu; công khai quy hoạch chi tiết một số cảng lớn; thí điểm khai thác vận tải hành khách, du lịch bằng ĐTNĐ trên các tuyến sông, đặc biệt là sông Hồng... để hấp dẫn các nhà đầu tư bằng hiệu quả thực tế.
Bên cạnh đó, TP cần ưu tiên bố trí nguồn lực nâng cấp hạ tầng giao thông ĐTNĐ như cải tạo luồng lạch; đảm bảo tĩnh không thông thuyền; tăng cường giao thông kết nối giữa đường thủy và đường bộ. Tăng cường phân cấp, quản lý cho các địa phương để chủ động triển khai thực hiện quản lý, đầu tư theo quy hoạch.
Hiện, Hà Nội còn dư địa vô cùng lớn để khai thác nguồn lợi từ GTVT trên các tuyến ĐTNĐ; quỹ đất dọc các sông cũng còn rất nhiều, đây là những điều kiện vô cùng thuận lợi. TP chỉ cần rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư vào ĐTNĐ cho phù hợp với thực tiễn, chắc chắn sẽ biến lĩnh vực này là thỏi nam châm hút nguồn vốn xã hội hóa.
Hà Nội phải đi trước, làm tốt công tác phối hợp với Bộ GTVT, Bộ NN&PTNT để khớp nối đồng bộ quy hoạch ĐTNĐ với quy hoạch đê điều, phòng chống lũ trên các tuyến sông do T.Ư quản lý. Sau khi TP đạt được thống nhất với các các bộ, ngành liên quan mới kêu gọi đầu tư, sẽ hấp dẫn và thuận lợi hơn rất nhiều.