Đồng giao sau ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 đã giảm 0,3% ở mức 9.648,50 USD/tấn.
Hợp đồng đồng được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải SCFcv1 giảm 1,6% xuống 78.670 Nhân dân tệ (10.833,55 USD)/tấn.
Nhà phân tích Soni Kumari của ANZ cho biết: “Vẫn còn những lo ngại vĩ mô đang gia tăng khi Trung Quốc vẫn đang gặp khó khăn. Nếu chúng ta thấy mọi thứ được cải thiện ở Trung Quốc thì giá sẽ tăng. Nhưng trong trung và dài hạn, đồng được hỗ trợ bởi sự thay đổi cơ cấu trong quá trình chuyển đổi năng lượng và những thách thức về nguồn cung.”
Những kỳ vọng về tình trạng thiếu hụt và triển vọng nhu cầu mạnh mẽ trong những năm tới đã đẩy đồng LME lên mức kỷ lục trên 11.100 USD trong tháng 5. Tuy nhiên, giá đã giảm 13% do không chắc chắn về sự phục hồi nhu cầu của Trung Quốc và thời điểm Mỹ cắt giảm lãi suất.
Dữ liệu chính thức cho thấy, doanh thu tài chính ở Trung Quốc đã giảm 2,8% trong 5 tháng đầu năm 2024 so với một năm trước đó do nhu cầu yếu kéo theo sự phục hồi kinh tế.
Đồng USD dao động gần mức cao nhất trong 8 tuần, khiến kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên kém hấp dẫn hơn đối với người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Về mặt kỹ thuật, đồng LME có thể kiểm tra lại mức hỗ trợ ở mức 9.579 USD/tấn trong tuần này, việc phá vỡ dưới mức này có thể mở đường hướng tới phạm vi 9.262 – 9.368 USD, theo nhà phân tích kỹ thuật Wang Tao của Reuters.
Nhôm LME CMAL3 giảm 0,5% xuống 2.501,00 USD/tấn, niken CMNI3 giảm 0,4% xuống 17.155,00 USD, kẽm CMZN3 giảm 0,4% xuống 2.834,00 USD, chì CMPB3 giảm 0,4% xuống 2.181,50 USD và thiếc CMSN3 tăng 0,3% ở mức 32.690,00 USD.
Nhôm SHFE SAFcv1 giảm gần 1% xuống 20.360 Nhân dân tệ/tấn, niken SNIcv1 giảm 1% xuống 134.050 Nhân dân tệ, chì SPBcv1 tăng 0,6% lên 18.890 Nhân dân tệ, trong khi kẽm SZNcv1 giảm 1% xuống 23.655 Nhân dân tệ và thiếc SSNcv1 giảm 0,3% xuống 273.3780 Nhân dân tệ.