Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giá thép hôm nay ngày 14/6: trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều tăng

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Ngày 14/6, thị trường trong nước tiếp tục bình ổn; quặng sắt phục hồi sau động thái mới nhất của Trung Quốc nhằm thúc đẩy lĩnh vực bất động sản.

Hầu hết các giá thép chuẩn trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều tăng.
Hầu hết các giá thép chuẩn trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều tăng.
Giá thép tại miền Bắc

Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.090 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.440 đồng/kg.

Thương hiệu thép Việt Ý, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.240 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.340 đồng/kg.

Thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.240 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.590 đồng/kg.

Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 có giá 14.010 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 giữ ở mức giá 14.210 đồng/kg.

Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.310 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.310 đồng/kg.

Giá thép tại miền Trung

Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.440 đồng/kg.

Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.750 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.000 đồng/kg.

Thép VAS, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.410 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.260 đồng/kg.

Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.940 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.200 đồng/kg.

Giá thép tại miền Nam

Thép Hòa Phát, thép cuộn CB240 ở mức 14.140 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.440 đồng/kg.

Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.310 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.210 đồng/kg.

Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.790 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.990 đồng/kg.

Giá thép trên sàn giao dịch

Sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) giao tháng 5/2025 tăng 5 Nhân dân tệ, lên mức 3.702 Nhân dân tệ/tấn.

Giá quặng sắt kỳ hạn tăng, được hỗ trợ bởi động thái mới nhất của Trung Quốc nhằm vực dậy lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn, mặc dù nhu cầu ngắn hạn mờ nhạt và tồn kho ven cảng cao liên tục tại quốc gia tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc đã hạn chế mức tăng.

Hợp đồng quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) DCIOcv1 của Trung Quốc cao hơn 0,93% ở mức 817 Nhân dân tệ (112,67 USD)/tấn.

Giá quặng sắt chuẩn tháng 7 SZZFN4 trên sàn giao dịch Singapore tăng 0,7% lên 106,60 USD/tấn.

Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã tổ chức một cuộc họp nhằm thúc đẩy hỗ trợ tài chính cho nhà ở giá rẻ nhằm đẩy nhanh doanh số bán nhà tồn kho, nỗ lực mới nhất nhằm vực dậy lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn.

Pei Hao - Nhà phân tích của công ty môi giới quốc tế Freight Investor Services (FIS) có trụ sở tại Thượng Hải, cho biết: “Giá đã lên xuống nhanh chóng trong sáng nay giữa những thông tin trái chiều và đợt tăng mới nhất là do nguồn tài chính cho nhà ở giá rẻ chiếm ưu thế. Ngoài ra, một số hoạt động mua vào sau khi giá giảm liên tục đã mang lại sự hỗ trợ nhất định.”

Nhưng mức tăng bị hạn chế do lo lắng kéo dài về việc thị trường kim loại màu có thể được hưởng lợi chính xác bao nhiêu từ các biện pháp kích thích tài sản khác nhau được áp dụng.

Nhà phân tích Soni Kumari của ANZ cho biết: “Nhu cầu quặng sắt nhìn chung đang có xu hướng giảm. Chính phủ Trung Quốc đã triển khai nhiều biện pháp kích thích để vực dậy thị trường bất động sản trong hơn một năm nhưng không giúp ích gì”.

Bà cho biết thêm, lượng hàng tồn kho ở mức cao và trừ khi nhu cầu tiêu dùng quay trở lại, giá cả sẽ bị áp lực.

Dữ liệu cho thấy lạm phát tiêu dùng của Trung Quốc giữ ổn định trong tháng 5, nhưng xu hướng cơ bản cho thấy Bắc Kinh sẽ cần phải làm nhiều hơn để thúc đẩy nhu cầu nội địa yếu kém trong bối cảnh kinh tế phục hồi không đồng đều.

Các nguyên liệu sản xuất thép khác trên DCE đều bị xáo trộn, trong đó than cốc DJMcv1 giảm 0,25% trong khi than cốc DCJcv1 tăng 1,5%.

Hầu hết các giá thép chuẩn trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều tăng. Thép cây SRBcv1 tăng 0,5%, thép cuộn cán nóng SHHCcv1 tăng 0,4%, thép thanh SWRcv1 tăng 0,16% trong khi thép không gỉ SHSScv1 giảm 1,13%.