Giá thép tại miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát duy trì đi ngang, hiện dòng thép cuộn CB240 bình ổn ở mức 16.950 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.510 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý ổn định 5 ngày liên tiếp, 2 sản phẩm của hãng gồm thép cuộn CB240 giữ nguyên giá bán ở mức 16.920 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.420 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Đức không có biến động, giữ nguyên giá bán. Với 2 sản phẩm của hãng gồm dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.820 đồng/kg; còn thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.470 đồng/kg.
Thép VAS tiếp tục bình ổn, hiện 2 sản phẩm của hãng gồm dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.660 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.770 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.870 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.070 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 tạm thời ở mức 17.000 đồng/kg; dòng thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.200 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.900 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.410 đồng/kg.
Thép Việt Đức không thay đổi giá bán so với ngày hôm qua, dòng thép cuộn CB240 có giá 17.070 đồng/kg và thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 17.470 đồng/kg.
Thép VAS, với 2 sản phẩm của hãng gồm dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.970 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.020 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 17.760 đồng/kg; còn thép thanh vằn D10 CB300 có giá bán 17.960 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát bình ổn 5 ngày liên tiếp, với dòng thép cuộn CB240 hiện ở mức 16.950 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.510 đồng/kg.
Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 duy trì mức 17.510 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 17.910 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 16.660 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.770 đồng/kg.
Thép Tung Ho với dòng thép cuộn CB240 có mức giá 16.950 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 hiện có giá 17.150 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Giá thép giao kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn giao dịch Thượng Hải hôm nay giảm 36 Nhân dân tệ, lên mức 4.752 Nhân dân tệ/tấn.
Rio Tinto - Tập đoàn khai thác và kim loại lớn thứ hai thế giới, có kế hoạch cung cấp các sản phẩm quặng sắt của Canada và Úc để sử dụng trong dự án thép xanh SALCOS của Salzgitter ở Đức.
Theo một thỏa thuận đã lên kế hoạch, Rio Tinto và Salzgitter sẽ khám phá việc tối ưu hóa quặng sắt dạng viên, cục và hạt mịn để sử dụng trong sản xuất thép khử trực tiếp hydro. Hai công ty cũng sẽ tìm hiểu tiềm năng về chứng nhận phát thải khí nhà kính trong chuỗi giá trị thép.
Rio Tinto sản xuất quặng sắt dạng viên và cô đặc tại Công ty Quặng sắt của Canada và quặng sắt dạng cục, quặng ở vùng Pilbara của Tây Úc. Sự hợp tác sẽ tập trung vào việc sử dụng tiềm năng của các sản phẩm này trong chương trình sản xuất thép ít CO2 SALCOS - Salzgitter, nhằm mục tiêu sản xuất thép hầu như không có carbon, bắt đầu từng bước vào năm 2025 bằng cách sử dụng phương pháp khử trực tiếp hydro.
Ông Alf Barrios - Giám đốc Thương mại của Rio Tinto cho biết, Tập đoàn hoan nghênh cơ hội hợp tác với Salzgitter về các cách để đẩy nhanh quá trình sản xuất thép xanh, phù hợp với cam kết giảm phát thải trên toàn bộ chuỗi giá trị thép.
Chủ tịch của Salzgitter Flachstahl, Ulrich Grethe cho biết: “Với liên minh này, chúng tôi muốn kết hợp kiến thức của cả hai công ty để đạt được tiến bộ hơn nữa với sản xuất thép carbon thấp. Trong bối cảnh này, Tập đoàn Salzgitter đang dựa vào các đối tác mạnh, như được đề ra trong chiến lược Tập đoàn Salzgitter AG 2030 của chúng tôi, phù hợp với phương châm Hợp tác cho các Giải pháp Thông tư".
Rio Tinto cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và đang đặt mục tiêu giảm 15% lượng phát thải Phạm vi 1 & 2 vào năm 2025 (từ đường cơ sở năm 2018) và giảm 50% vào năm 2030. Cách tiếp cận của Rio Tinto để giải quyết lượng phát thải Phạm vi 3 là tương tác với khách hàng của mình về biến đổi khí hậu và làm việc với họ để phát triển các công nghệ khử cacbon.
Theo chương trình SALCOS, tuyến lò cao dựa trên carbon của Salzgitter sẽ dần được thay thế từ giữa thập kỷ này bằng các nhà máy khử trực tiếp, ban đầu vận hành bằng khí tự nhiên và sau đó với tỷ lệ hydro tăng dần.